Chất lượng quản lý các khu công nghiệp ở Thái Bình

Nằm ở hạ lưu châu thổ sông Hồng, Thái Bình là một trong hai tỉnh (Thái Bình và Hưng Yên) đất đai bằng phẳng màu mỡ, rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp, nhưng lại khó khăn để phát triển công nghiệ
Nhằm thực hiện tiến trình CNH - HĐH, hội nhập, đẩy nhanh tốc độ phát triển và đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và thu hút lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp, được phép của Chính phủ, Thái Bình đã cắt một phần đất đai nông nghiệp để qui hoạch, xây dựng các khu công nghiệp (KCN). Rút kinh nghiệm của các tỉnh đi trước, ngay từ đầu, Thái Bình đã chú trọng đến chất lượng quản lý các KCN (qui hoạch, xây dựng, thu hút đầu tư, xử lý môi trường…) một cách bài bản, đồng bộ.

Về công tác qui hoạch các KCN, Thái Bình nhằm vào ven trục đường giao thông lớn là quốc lộ số 10, bắt đầu từ Nam Định, chạy từ Nam đến Bắc tỉnh Thái Bình với chiều dài hơn 40 km, điểm cuối đoạn đường là Cầu Nghìn, cách cảng Hải Phòng khoảng 30 km. Đây là yếu tố rất thuận lợi cho việc xuất, nhập khẩu nguyên liệu, sản phẩm cho các KCN trong tỉnh. Khai thác lợi thế này, từ năm 2001 đến nay, Thái Bình đã qui hoạch 5 KCN ven quốc lộ 10: 3 KCN tại thành phố Thái Bình gồm KCN Phúc Khánh rộng 200 ha, KCN Nguyễn Đức Cảnh rộng 101,9 ha, KCN sông Trà rộng 250 ha; KCN Gia Lễ (huyện Đông Hưng) rộng 85 ha; KCN Cầu Nghìn (huyện Quỳnh Phụ) rộng 214 ha. Ngoài ra, tại mỏ khí đốt huyện ven biển Tiền Hải, tỉnh đã xây dựng KCN sử dụng nhiên liệu khí đốt rộng 250 ha. Tổng diện tích 6 KCN hiện có của tỉnh rộng 979,8 ha.

Trước khi bước vào công tác qui hoạch các KCN, các nhà lãnh đạo và quản lý kinh tế Thái Bình đều xác định, thu hút đầu tư đến đâu thì thu hồi đất tới đó; cấp, cho thuê đất không tràn lan mà theo hình thức "cuốn chiếu". Đất đã qui hoạch, chưa sử dụng phải để dân tận dụng trồng cấy. Với ý thức đó, đến thời điểm này các KCN mới thu hồi 636,85 ha, trong đó đất cho thuê là 463,25 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 81,28% so với đất thu hồi. Đây là tỉnh đạt tỷ lệ cao nhất so với bình quân chung của cả nước.

Trong công tác thu hút đầu tư, Thái Bình cũng có nhiều điểm mới so với các tỉnh, thành phố khác. Trước hết, tỉnh tổ chức xúc tiến đầu tư tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo, thông qua nhiều kênh khác nhau, tỉnh xúc tiến đầu tư tại một số tỉnh, thành phố của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, thậm chí đến tận Liên bang Nga, châu Âu và một số nước Đông Nam Á. Trong các cuộc xúc tiến đầu tư, Thái Bình giới thiệu đầy đủ tiềm năng đất đai, lao động, khả năng tiếp cận thiết bị công nghệ mới của lớp lao động trẻ, có văn hóa khá của Thái Bình; hệ thống đào tạo, dạy nghề, tín dụng, dịch vụ phục vụ cho các KCN. Đặc biệt là, một số chính sách ưu đãi phù hợp với luật Đầu tư được tỉnh áp dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến với Thái Bình. Song song với việc xúc tiến kêu gọi đầu tư sản xuất kinh doanh, ngay từ đầu, Thái Bình còn kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng. Tính đến nay, đã có tới 3 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Trong đó, có Công ty cổ phần Đài Tín (Đài Loan) đã rất thành công khi đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN Phúc Khánh. Chính Đài Tín đã mời gọi được nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư sản xuất. Tại KCN sông Trà, một công ty trong nước được phép kinh doanh cơ sở hạ tầng đã thu hút được nhiều doanh nghiệp bắt tay vào xây dựng nhà máy, xí nghiệp, trong đó có một công ty của nước ngoài. Thái Bình cũng là tỉnh sớm thành lập Ban quản lý các KCN, ngay sau khi qui hoạch xây dựng 2 KCN tại thành phố Thái Bình. Ban quản lý KCN đã tham mưu cho UBND Tỉnh đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thu hút đầu tư, giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp, đã hình thành hệ thống "một cửa và một cửa liên thông" hoạt động đồng bộ, thường xuyên và nền nếp.

Với quyết tâm giành mọi cố gắng cho các nhà đầu tư để sớm lấp đầy các KCN, đến nay, Thái Bình đã thu hút được 134 dự án đăng ký đầu tư vào các KCN, với số vốn đăng ký 10.869,539 tỷ đồng, vốn đã thực hiện được 10.303 tỷ đồng, đạt 94,8% so với tổng số vốn đăng ký. Trong đó có 34 dự án FDI (chiếm 25% tổng dự án) với số vốn đầu tư 4.975,34 tỷ đồng, đạt bình quân suất vốn trong nước 58,94 tỷ đồng, suất vốn FDI đạt 146,33 tỷ đồng/một dự án, cao gấp 3 lần suất vốn đầu tư bình quân chung của cả nước. Ngoài ra, Thái Bình còn thu hút hàng trăm doanh nghiệp đầu tư vào các cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề trong tỉnh.

Xuất phát từ thực tại "tấc đất, tấc vàng", cộng với sự quan tâm sâu sắc, đôn đốc thường xuyên, kịp thời, nên đến nay các KCN của Thái Bình đã có 131/134 dự án đi vào sản xuất (còn lại đang xây dựng), thu hút 42.912 lao động vào làm việc, bằng 70% số lao động các dự án đăng ký. Trong đó 2 KCN Phúc Khánh và Nguyễn Đức Cảnh đã lấp đầy các nhà máy, xí nghiệp đang đi vào sản xuất. Các KCN khác như Gia Lễ, Tiền Hải đạt tỷ lệ lấp đầy 60 - 70 %.

Những năm đầu của thập niên này, Thái Bình còn thiếu kinh nghiệm quản lý và xử lý môi trường tại các KCN, nên có lúc nước thải công nghiệp chưa qua thanh lọc chảy tự do ra sông, rác thải công nghiệp đổ ra ven đường làm ô nhiễm nguồn nước, gây tổn thất cho nông nghiệp khu vực xung quanh KCN. 5 năm trở lại đây, công tác bảo vệ môi trường đã được chú trọng. KCN Nguyễn Đức Cảnh, KCN Phúc Khánh đã được đầu tư hàng chục tỷ đồng cho trạm xử lý nước đạt tiêu chuẩn quốc gia; các đường nội bộ được trồng cây xanh. Tại KCN Tiền Hải, đã qui hoạch một hồ khá lớn để các doanh nghiệp sản xuất sành sứ, thủy tinh, gạch ốp lát… chôn lấp sản phẩm hỏng, các loại khuôn phế thải. Các KCN khác đều được chỉ đạo xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ với xử lý nước thải, rác thải và trồng cây xanh. Nhờ sự cố gắng đó, đến nay công tác giữ gìn môi trường ở các KCN đã giảm hẳn sự bức xúc của xã hội.

Năm 2011, tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng giá trị sản xuất của các KCN của tỉnh đã đạt 3811,808 tỷ đồng (theo giá cố định 1994), tăng 18% so với năm 2010, chiếm 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN toàn tỉnh. Nhiều chỉ tiêu như kim ngạch xuất khẩu đạt 181 triệu USD, tăng 19% so với năm 2010, chiếm 36% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh; kim ngạch nhập khẩu đạt 228 triệu USD; nộp NSNN đạt 455 tỷ đồng. Kết quả này đã góp phần giành thắng lợi bước đầu trong việc thực hiện Nghị quyết 11 của Thủ tướng Chính phủ tại Thái Bình.

Bên cạnh việc nâng cao năng lực quản lý, giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN duy trì, phát triển SX-KD, năm 2011, Thái Bình còn giúp các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiêu thụ hàng tồn kho; đôn đốc các doanh nghiệp đăng ký sử dụng và ký kết thỏa ước lao động, thành lập 53 công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh tại các KCN; kiểm tra, nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện tốt luật lao động, luật bảo hiểm. Đến nay, 06 KCN trong tỉnh đã có 30.232 lao động/42.912 người (bằng 70%) được tham gia 3 loại bảo hiểm: BHXH, BHYT, BH tai nạn. Các chế độ tiền công, tiền thưởng an toàn vệ sinh thực phẩm tại các doanh nghiệp cũng được Ban quản lý các KCN và các ngành phối hợp kiểm tra thường xuyên, vì vậy tình trạng đình công, lãn công hạn chế hơn các năm trước đây.

Với sự vững vàng của các doanh nghiệp và chất lượng quản lý các KCN ngày càng nâng cao, tin rằng, mục tiêu tăng trưởng công nghiệp – TTCN từ 20 đến 25% của Thái Bình trong năm 2012 rất khả quan.