Chính sách tiền tệ 2008 -triển vọng 2009

Chính sách tiền tệ năm 2008 tác động tích cực đến chống lạm phát, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu đầu tư, xem lại thái độ tiêu dùng, thay đổi cán cân thương mại,... cuộc vượt bão khá ngoạn mục. Nhìn năm cũ

1.  Bốn động thái nổi bật trên thị trường tiền tệ Việt Nam năm 2008

         Thứ nhất, lãi suất biến động mạnh và liên tục tăng cao trong những tháng đầu năm và giải dần trong những tháng cuối năm:

Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 2/2008 đến tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc chạy đua về lãi suất... Tuy nhiên, những tháng cuối năm, lãi suất thị trường có xu hướng giảm: Lãi suất huy động và cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm, hiện nay, lãi suất huy động phổ biến từ 10%-11%/năm, cho vay bằng VND của các NHTM Nhà nước khoảng 12%-14%/năm, NHTM cổ phần khoảng 14%-16%/năm; lãi suất cho vay USD khoảng 6,6%-9%/năm. Có thể đánh giá chung về diễn biến tình hình lãi suất trong năm 2008 chủ yếu gắn liền với 3 yếu tố chính sau:

Yếu tố thị trường: trong điều kiện lạm phát, việc tăng lãi suất là phù hợp, nhằm đảm bảo lợi ích của các thành viên của thị trường tiền tệ (ngân hàng, người gửi tiền, người vay tiền).

Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc và công cụ lãi suất đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này.

Yếu tố chủ quan: Lãi suất tăng nhanh và tăng cao ngoài 2 yếu tố mang tính khách quan, còn do yếu tố chủ quan đó là quá trình khai thác và sử dụng nguồn vốn của các NHTM chưa hợp lý. Trong đó việc tăng trưởng tín dụng quá nóng, vượt khả năng nguồn vốn của một số NHTM cổ phần đã tạo ra áp lực về thanh khoản rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn bị thu hẹp (do phải tăng dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu NHNN bắt buộc) càng làm cho một số NHTM cổ phần khó khăn về vốn trong thanh khoản – diễn biến này đã đẩy lãi suất huy động tăng cao và tăng nhanh nhằm thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Cùng với quá trình “hút” tiền về của NHTW, quá trình này đã tác động hiệu ứng đến toàn hệ thống và làm xuất hiện cuộc đua lãi suất trong khoảng thời gian cuối tháng 2 và nửa đầu tháng 3/2008.

Thứ hai,  tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp:

Đến cuối tháng 11/2008, so với cuối năm 2007 thì tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2,75% (tỷ lệ này năm 2007 là 0,17%). Tỷ giá mua bán của các NHTM trong biên độ cho phép. Mặc dù diễn biến của tỷ giá về cơ bản trong sự điều hành của NHTW. Tuy nhiên, tỷ giá trên thị trường có lúc diễn biến bất thường do xu hướng nhập siêu gia tăng, diễn biến thị trường vàng, ngoại tệ trên thế giới phức tạp…đã tác động đến tâm lý người dân, nhà đầu tư. Trong đó, một bộ phận nhà đầu tư mua ngoại tệ đầu cơ, tích trữ đã tác động hiệu ứng chung đến thị trường, làm cho tỷ giá trong thời gian này tăng nhanh, tăng cao và tăng liên tục trong những  tháng 6/2008. Chỉ khi có dấu hiệu khả quan về nhập siêu, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu và đặc biệt thông tin về Dự trữ ngoại tệ quốc gia…thì thị trường mới có phản ứng tích cực . Theo đó, tỷ giá đã ổn định trở lại, quan hệ cung-cầu ngoại tệ ổn định, các TCTD đảm bảo đáp ứng ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Thứ ba, phát sinh nhiều loại phí liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng, dẫn đến sự cạnh tranh thiếu lành mạnh.

Diễn biến phức tạp của tình hình lãi suất, tình hình tỷ giá đã làm phát sinh nhiều loại phí liên quan đến hoạt động này. Trong đó việc nổi bật 2 loại phí  dịch vụ tín dụng (như: phí thu xếp vốn, phí thẩm định, phí giải ngân…đây không phải là loại phí mới phát sinh. Tuy nhiên trong quá trình này, một số TCTD đã thực hiện việc ký quỹ đối với khách hàng vay tiền, đã làm phát sinh chi phí, làm tăng chi phí khoản vay. Hình thức này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ khách hàng – ngân hàng, gây khó khăn cho khách hàng vay vốn) và phí ngoại hối (khoảng thời gian tháng 6/2008, tỷ giá, cung-cầu ngoại tệ diễn biến rất nhanh: thừa ngoại tệ nhiều sau đó lại có biểu hiện khan hiếm ngoại tệ, việc mua-bán ngoại tệ theo giá niêm yết thường không có lợi. Điều này đã làm phát sinh việc thu phí trong hoạt động này; trong một số trường hợp, các TCTD “lách” biên độ bằng việc giao dịch qua đồng tiền thứ 3…Quá trình này đã tác động rất lớn đến thị trường ngoại hối, gây những biến động về tâm lý cho người dân và làm lợi cho giới đầu cơ, ảnh hưởng rất nhiều đến doanh nghiệp).

Thứ tư, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ gặp khó khăn.

Trong những tháng đầu năm 2008, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ gặp nhiều khó khăn-trong đó diễn biến của tình hình lãi suất trên thị trường, đặc biệt là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng liên tục và tăng cao là thực tế minh chứng rõ nhất về tình hình này trong những tháng đầu năm. Cụ thể:

+ Nhu cầu vốn trong thanh toán của một số NHTM cổ phần nhỏ rất cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho thanh toán các NHTM nói chung và NHTM cổ phần nói riêng trên địa bàn đã sử dụng biện pháp lãi suất để thu hút nhanh nguồn vốn tiền gửi từ dân cư. Theo đó lãi suất huy động liên tục tăng trong thời gian này.

+ Vốn khả dụng thấp: Về mặt nguyên tắc tất cả các TCTD phải đảm bảo duy trì DTBB bình quân. Tuy nhiên, trong một số thời điểm tại một số NHTM cổ phần, mức này không được duy trì và phải bù đắp vào những ngày cuối tháng-diễn biến này càng làm tăng thêm nhu cầu vốn trên thị trường liên ngân hàng.

+ Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục tăng nhanh và tăng cao. Có thời điểm lãi suất loại  kỳ hạn cho vay qua đêm lên tới 21%/năm, trong khi đó, mức lãi suất này khi thị trường ổn định ở mức khoảng 10%-11%/năm.

2. Điều hành chính sách tiền tệ và những kết quả đạt được

Trong bối cảnh trên, nhằm mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, NHNN đã tích cực thực hiện hút tiền từ lưu thông về thông qua các công cụ, như: Tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Quyết định số 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008); Phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm, lãi suất 7,80%/năm (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008). Đặc biệt, NHNN đã điều hành linh hoạt các mức lãi suất chỉ đạo và đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, có kết hợp cả biện pháp trực tiếp (quy định trần lãi suất theo Công điện số 02 để ổn định nhanh khi thị trường tiền tệ bị xáo trộn bởi cuộc đua lãi suất). Từ tháng 10/2008, nhằm tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND và giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ (Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008); đồng thời, cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở và được rút trước hạn theo yêu cầu. Đến ngày 20/11/2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm 2% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các TCTD (Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008).

Biểu 1: Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2007-2008

Đơn vị %

 

2007

2008 (3 lần thay đổi)

 Tỷ lệ DTBB (%tổng số dư tiền gửi phải DTBB)

 

Lần 1: á

Lần 2:  â

Lần 3: â

  - Không kỳ hạn và dưới 12 tháng

 

 

 

 

     + VND

10

11

10

8

     + Ngoại tệ

10

11

9

9

  - Từ 12 -24 tháng

 

 

 

 

     + VND

4

5

4

2

     + Ngoại tệ

4

5

3

3

 Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Theo đó, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Tại thời điểm thực hiện cơ chế lãi suất mới, lãi suất cơ bản được ấn định ở mức 12% và sau đó được điều chỉnh lên 14% (ngày 11/6), theo đó các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng tăng lên (lãi suất tái cấp vốn tăng từ 13%-15%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 11%-13%). Đồng thời để đảm bảo thi hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, ngày 10/6/2008, Thống đốc NHNN ban hành văn bản số 5158/NHNN-CSTT yêu cầu các TCTD không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay.

Trước xu hướng tăng chậm lại của chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt -0,19% trong tháng 10 và -0,76% trong tháng 11, nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng bền vững, NHNN đã ba lần giảm các loại lãi suất chỉ đạo như lãi suất cơ bản giảm từ 14%-13%-12%-11%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15%-14%-13%-12%/năm, lãi suất chiết khấu từ 13%-12%-11%-10%/năm.

Đồng thời, NHNN ban hành Công văn số 10259/NHNN-CSTT ngày 20/11/2008 về việc thực hiện các biện pháp về tín dụng và lãi suất; trong đó, NHNN yêu cầu các TCTD: (i) Điều chỉnh lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam phù hợp với quy định của NHNN, đảm bảo khả năng huy động vốn, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả. (ii) Tập trung vốn tín dụng cho các lĩnh vực cho các lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp và nông thôn, nhất là các hộ nông dân sản xuất lúa vụ mùa Đông xuân, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn. (iii) Chủ động thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Biểu 2: Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN 2007-2008

Đơn vị: %/năm

Năm

 

Lãi suất

2007

2008

Lần1: á

Lần2
á

Lần3
á

Lần 4
â

Lần 5
â

Lần 6
â

- Lãi suất cơ bản

8,25

8,75

12

14

13

12

11

- Lãi suất tái cấp vốn

6,5

7,5

13

15

14

13

12

- Lãi suất tái chiết khấu

4,5

6,0

11

13

12

11

10

- Lãi suất cho vay tối đa

12

13

18

21

19,5

18

16,5

Bên cạnh đó, NHNN đã tăng cường kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán, theo đó chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp với chủ trương ưu tiên kiềm chế lạm phát của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ từng lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản và cho vay tiêu dùng; ban hành mới cơ chế cho vay ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ. Tập trung hỗ trợ vốn cho các lĩnh vực quan trọng để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn.

Các giải pháp điều hành chính sách lãi suất nêu trên đã tác động điều chỉnh mặt bằng lãi suất huy động vốn và cho vay ở mức hợp lý, đảm bảo lãi suất biến động theo xu hướng ổn định và hài hoà quyền lợi giữa người gửi tiền-TCTD-người vay tiền, góp phần kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

         Đặc biệt, trong thời điểm cuối tháng 5/2008, nhu cầu “ảo” USD tăng cao do yếu tố tâm lý và hành vi đầu cơ khiến tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng đột biến có lúc lên trên 19.000 VND/USD, NHNN đã chủ động điều hành linh hoạt tỷ giá: biên độ tỷ giá VND/USD được nới lỏng từ +0,5%→+ 0,75% →+1%→+2%% →+3%, đồng thời cũng thực hiện can thiệp mua/bán trên thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thiết yếu (xăng dầu, thuốc chữa bệnh, phân bón, thiết bị y tế,...); công bố mức dự trữ ngoại hối 20,7 tỷ USD, can thiệp trên thị trường ngoại hối, ban hành Quy chế Bàn thu đổi ngoại tệ, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm thu phí giao dịch, cấm các TCTD không được giao dịch USD thông qua đồng tiền thứ 3; phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường nhằm ổn định thị trường ngoại hối.

         Đồng thời, NHNN cũng chủ động thực hiện hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng trong bối cảnh huy động vốn gặp khó khăn. Trên thị trường mở, NHNN liên tục thực hiện các phiên chào mua GTCG với các kỳ hạn thích hợp và với lãi suất linh hoạt phù hợp với cung cầu vốn và lãi suất cơ bản của NHNN. NHNN cũng thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn cho các NHTM ( nhất là các NHTM có quy mô nhỏ nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản và cân đối vốn kinh doanh) và tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (bằng VND từ 1,2%-3,6%-5%-10%/năm) nhằm tạo điều kiện cho các NHTM hạ lãi suất huy động và cho vay.

 Trước diễn biến của khủng hoảng tài chính toàn cầu, từ 15/9/2008, NHNN đã chủ động đánh giá tác động tới hoạt động của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế; chủ động các biện pháp nhằm quản lý an toàn và dự trữ ngoại hối Nhà nước; NHNN ban hành Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày 09 tháng 10 năm 2008 của Thống đốc về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; trong đó, chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh.

Bên cạnh đó, NHNN còn tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD theo quy định của pháp luật và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung các tiêu chí, điều kiện chặt chẽ để kiểm soát việc thành lập mới các ngân hàng; chỉ đạo triển khai lộ trình tăng vốn của các NHTM, trong đó cho phép bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài trong phạm vi cho phép; nâng cao chất lượng hoạt động và quản trị của các ngân hàng; cũng như đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng để  tạo sự đồng thuận của công chúng và doanh nghiệp; thường xuyên trao đổi, thông tin kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ cho các tổ chức tài chính quốc tế lớn (IMF, ADB, WB, UNDP...) và cộng đồng quốc tế để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, tránh hiểu sai và đưa thông tin không chính xác về kinh tế Việt Nam. Việc thiết lập đường dây nóng trong thời gian qua đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần tích cực bình ổn thị trường.

Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao và gặp nhiều khó khăn, các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2008 đã có tác động tích cực đối với kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì đà tăng trưởng kinh tế, củng cố niềm tin đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy, việc điều hành linh hoạt các công cụ quản lý đã phát huy tác dụng nhiều mặt, vừa kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông, vừa điều tiết lãi suất và tỷ giá trên thị trường, đồng thời phát ra tín hiệu rõ ràng về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để phối hợp điều tiết các hoạt động kinh tế của tổ chức, cá nhân phù hợp với mục tiêu chính sách. Cùng với việc thực hiện quyết liệt các nhóm giải pháp của Chính phủ, kinh tế vĩ mô đã có những dấu hiệu tích cực, thể hiện qua:

(i) Lạm phát đã có xu hướng giảm dần ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% chủ yếu do sốc giá gạo vào tháng 4/2008. Cụ thể CPI các tháng là: Tháng 1: +2,38%; tháng 2: +3,56%; tháng 3: +2,99%; tháng 4: +2,2%; tháng 5: +3,91%; tháng 6: +2,14%; tháng 7: +1,13%; tháng 8: +1,56%, tháng 9: + 0,18%, tháng 10: -0,19%, tháng 11: -0,76% là mức thấp nhất so với các tháng trước đó.

Đồ thị 1: Diễn biến CPI qua 11 tháng 2008

 

 

 (ii) Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; 10 tháng đầu năm, Tổng phương tiện thanh toán tăng 9,48% chỉ bằng ¼ của cùng kỳ năm ngoái, tốc độ tăng tín dụng chậm dần (10 tháng tăng gần 18% so với cuối năm 2007), từ đó tác động kiềm chế tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.

Đồ thị 2: Diễn biến tăng trưởng tín dụng và Tổng phương tiện thanh toán 10 tháng/2008

 

 

(iii) Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng ở mức độ hợp lý. Tính đến ngày 28/11/2008: 16.483VND/USD, tăng 2,76% so với đầu năm, phù hợp với cung-cầu ngoại tệ, yêu cầu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với cơ chế hỗ trợ vay vốn và mua bán ngoại tệ đối với xuất khẩu, cho phép thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp chế xuất; kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ để nhập khẩu và can thiệp bán ngoại tệ tập trung cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và giảm đáng kể nhập siêu.

 

(iv) Lãi suất có xu hướng giảm: Sau những động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo của NHNN, hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn vay của ngân hàng dễ dàng hơn. Hiện nay lãi suất cho vay của NHTM Nhà nước khoảng 12-14%/năm, của NHTM cổ phần phổ biến ở mức 14-16%/năm. Các TCTD hoạt động an toàn, khả năng thanh toán được đảm bảo. Cho đến nay các TCTD của Việt Nam chưa chịu tác động lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hiện đang hoạt động bình thường và ổn định, do thị trường tài chính và mức độ liên kết của các ngân hàng trong nước với hệ thống tài chính quốc tế còn hạn chế.

 

Đồ thị 3: Diễn biến lãi suất huy động và cho vay 10 tháng/2008

 

 

(v) Nhập siêu được cải thiện trong những tháng gần đây: Mức nhập siêu giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD/tháng trong 6 tháng đầu năm xuống trung bình trên 500 triệu USD/tháng từ tháng 7 đến nay (Q1/08: 8,35 tỷ USD; 6T/08: 14,2 tỷ USD; 10T/08: 16,4 tỷ USD).

 

Đồ thị 4: Diễn biến nhập siêu 10 tháng 2008

 

 

 

 

         

(vi) Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh: Vốn FDI tiếp tục gia tăng: 10T/2008, FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD, cả năm đạt 60,3 tỷ USD gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007; vốn thực hiện đạt 9,1 tỷ USD, cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam về trung hạn và dài hạn.

3. Triển vọng kinh tế Việt Nam và định hướng chính sách tiền tệ 2009:

 Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009 chỉ đạt 2,2% giảm mạnh so với mức 3,7% của năm 2008 (trong đó tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển châu Á chỉ đạt khoảng 7,1% trong năm 2009; một số nước có mức tăng trưởng âm như Mỹ -0,7%, khu vực EU -0,15%, Đức -0,18%...); giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế gần đây có xu hướng giảm và theo dự báo của IMF  thì giá cả hàng hoá trong năm 2009 có xu hướng giảm (giá dầu giảm -31,8%, giá hàng hoá phi năng lượng giảm -18,7%...). Hiện nay, khủng hoảng tài chính thế giới vẫn tiếp diễn, mặc dù cho đến nay chưa tác động gây bất ổn định các cân đối vĩ mô nhưng từ nay đến cuối năm 2008 và năm 2009, nền kinh tế nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng không thuận lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới, cụ thể là:

(i) Nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và chuyển tiền kiều hối có thể chậm lại do triển vọng tăng trưởng kinh tế của Mỹ, EU, Nhật Bản, là thị trường xuất khẩu quan trọng đều giảm so với những dự báo trước đó; giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm.

(ii) Đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nguồn tín dụng trên thị trường tài chính thế giới bị thu hẹp, sẽ làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam không phải là một ngoại lệ.

(iii) Thị trường nhà ở có thể bị đóng băng kéo dài hơn, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thu hồi nợ của hệ thống ngân hàng.

Từ bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước nêu trên, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 296/TB-VPCP ngày 21/10/2008, năm 2009, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì đà tăng trưởng hợp lý. Theo đó, NHNN linh hoạt trong điều hành lãi suất và tỷ giá, chủ động kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng, cơ cấu tín dụng phù hợp để tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại và đảm bảo an toàn, điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản, và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án kinh doanh có hiệu quả cao; tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách và chỉ đạo các TCTD (chủ yếu các ngân hàng thương mại nhà nước) tiếp tục huy động vốn điều chỉnh cơ cấu tín dụng mở rộng tín dụng đáp ứng vốn cho nhu cầu vay có hiệu quả, đảm bảo khả năng thu hồi vốn. Cụ thể:

+ Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát chặt chẽ việc tăng tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng, nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động lành mạnh của các ngân hàng.

+ Chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường và áp dụng các biện pháp thích hợp để định hướng và ổn định lãi suất, hướng tới thực hiện lãi suất thực dương.

+ Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Thực hiện các giải pháp thiết thực không để đô la hoá nền kinh tế.

+ Quản lý chặt chẽ việc thành lập mới, mở chi nhánh ngân hàng và tăng cường kiểm soát, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, bảo đảm việc tuân thủ các quy định về phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ, về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng; kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm để bảo đảm an toàn, ổn định của toàn hệ thống.

+ Theo dõi chặt chẽ và kịp thời đề xuất với Chính phủ các giải pháp đồng bộ để giảm dần thâm hụt cán cân vãng lai, duy trì thặng dư cán cân vốn, giữ vững cân bằng cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn...

Với những kết quả và kinh nghiệm đã thu được, bằng sự nỗ lực và trách nhiệm cao nhất trong sự tuân thủ các chỉ đạo của Chính phủ, hy vọng ngành ngân hàng sẽ có đóng góp ngày càng tích cực vào quá trình ổn định và phát triển kinh tế đất nước, góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, lạm phát khoảng dưới 15% trong năm 2009 mà Quốc hội và Chính phủ đã đặt ra.../. 

Lê Trang, Vụ CSTT-NHNN