Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua đến nay đã được 10 năm, cùng thời gian đó, Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập và đã qua năm hoạt động thứ 10. Đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về sản lượng và ngành nghề kinh doanh của Than Việt Nam: sản lượng than năm 2004 tăng gấp 4 lần so với năm 1994, cơ cấu công nghiệp than – các nhà máy điện – cơ khí chế tạo – vật liệu nổ công nghiệp – vật liệu xây dựng – thương mại, dịch vụ đang được hình thành và phát triển. Cùng với sự tăng trưởng về sản lượng và trưởng thành về qui mô, điều kiện làm việc, thu nhập của công nhân viên chức đã được cải thiện đáng kể; môi trường vùng mỏ cũng đã có những chuyển biến tích cực. Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện công tác bảo vệ môi trường (1995 – 2004) của Tổng Công ty Than Việt Nam vừa được tổ chức đã đánh giá những kết quả đạt được, đúc kết những bài học kinh nghiệm và định hướng cho công tác bảo vệ môi trường trong những năm tới.
Hoạt động khai thác than ở Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1840, đến nay đã được trên 160 năm. Những tác động xấu đối với môi trường sinh thái vùng than là hậu quả của những hoạt động khai thác trong thời kỳ vùng mỏ còn nằm trong tay thực dân Pháp, của một thời kỳ dài công tác bảo vệ môi trường chưa được quan tâm và đặt thành vấn đề bắt buộc từ sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, của giai đoạn ngành công nghiệp than Việt Nam lâm vào khủng hoảng, sản lượng thấp, khai thác than trái phép phát triển mạnh trong giai đoạn những năm 80, đầu những năm 90. Tổng Công ty Than Việt Nam ra đời đúng với thời điểm ban hành Luật Bảo vệ môi trường. Đây là một đặc điểm rất quan trọng, giúp cho công tác bảo vệ môi trường trong Tổng Công ty Than Việt Nam có được sự quan tâm ngay từ đầu, các điều kiện và cơ sở cho việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường và công tác bảo vệ môi trường của Tổng Công ty được xây dựng có trọng tâm và đúng định hướng.
Kết quả đạt được trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong 10 năm qua và những tồn tại.
Những việc làm và kết quả mà Tổng Công ty Than Việt Nam đã thực hiện trong những năm qua là rất lớn, xuất phát từ chiến lược bảo vệ môi trường của Than Việt Nam được xác định ngay từ khi được thành lập, đó là “Chủ động bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững của TVN”. Sự chủ động trong chiến lược bảo vệ môi trường của Than Việt Nam được thể hiện không những đối với những vấn đề môi trường nảy sinh trong hoạt động sản xuất – kinh doanh than hiện tại, mà còn cả đối với những vấn đề môi trường do lịch sử để lại. Xuất phát từ chiến lược đã được xác định, Than Việt Nam đã chủ động đề xuất với Chính phủ nhiều chủ trương và thực hiện nhiều giải pháp vì mục tiêu phát triển bền vững của Ngành. Một trong những đề xuất thành công là việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện chạy than tại vùng mỏ, sử dụng than xấu nhằm giảm thiểu lượng than xấu thải trôi xuống biển do không sử dụng trong những năm trước đây và giảm được một lượng than phải vận chuyển qua vùng vịnh Hạ Long. Theo đề xuất của Than Việt Nam, Chính phủ đã đồng ý cho xây dựng các nhà máy nhiệt điện Na Dương (Lạng Sơn), Cao Ngạn (Thái Nguyên), Cẩm Phả, Quảng Ninh (Quảng Ninh), Sơn Động (Bắc Giang), Nông Sơn (Quảng Nam). Than Việt Nam đã lựa chọn công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn (CFB) cho các nhà máy nhiệt điện nói trên. Với công nghệ này, lượng bụi và phát thải SOx, NOx được giảm dần đến mức tối đa, phù hợp với tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và quốc tế.
Nhằm giảm thiểu ô nhiễm do bụi khi vận chuyển than, Than Việt Nam đã và sẽ tiến hành xây dựng hệ thống đường giao thông nội bộ tại vùng mỏ Quảng Ninh, qui hoạch lại các bến bãi xuất than nội địa theo đường thuỷ, nhờ vậy đã và sẽ giảm được lượng than vận chuyển qua các khu đô thị và đường quốc lộ.
Dự án Cải tạo bãi thải Nam Đèo Nai thành làng sinh thái theo đề xuất của Than Việt Nam đang được thực hiện, sẽ trở thành một dự án mẫu về phục hồi và tái tạo cảnh quan môi truờng bãi thải. Cả một khu vực bãi thải tồn tại từ hàng trăm năm nay sẽ được cải tạo, phủ xanh, trở thành nơi sinh sống cho thợ mỏ và góp phần thu hút khách du lịch. Khi kết thúc dự án, bãi thải Nam Đèo Nai sẽ là một khu sinh thái đẹp nhìn ra vịnh Bái Tử Long ở hướng nam, nhìn xuống khu dân cư thị xã Cẩm Phả ở hướng đông.
Các công nghệ thân thiện với môi trường cũng được Than Việt Nam chủ động đề xuất và thực hiện: đó là việc sử dụng cột chống thuỷ lực trong các lò chợ khai thác, nhằm giảm lượng gỗ làm cột chống trong các lò chợ, từ 50 – 60 m3 nay đã giảm xuống dưới 30 m3/1000 T than khai thác; sử dụng thuốc nổ ANFO thay thế thuốc nổ TNT để loại trừ những tác nhân gây độc có trong thuốc nổ TNT; sử dụng các phụ kiện và phương pháp nổ tiên tiến để hạn chế chấn động do nổ mìn; thử nghiệm biện pháp sử dụng máy cày xới và làm tơi đất đá, nhằm giảm khối lượng đất đá cần bắn mìn ở mỏ than Núi Béo.
Tuy nhiên, đánh giá một cách nghiêm túc, còn nhiều vấn đề về môi trường là hậu quả của hoạt động khai thác than cho đến nay vẫn chưa được giải quyết, các giải pháp bảo vệ môi trường hiện nay vẫn mang tính tình thế, đối phó, nhất là đối với vùng than Quảng Ninh. Thực trạng ô nhiễm do vận chuyển và sàng tuyển than tại vùng Uông Bí luôn là nỗi nhức nhối, trăn trở của lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh và Tổng Công ty Than Việt Nam. Môi trường sống của cộng đồng dân cư bị xâm phạm nghiêm trọng do bụi, do tiếng ồn, khiến cho một bộ phận trong cộng đồng dân cư có phản ứng. Giải quyết cơ bản vấn đề ô nhiễm vùng Uông Bí sẽ là một trong những mục tiêu ưu tiên của Lãnh đạo Than Việt Nam trong kế hoạch bảo vệ môi trường những năm tới. Tại các vùng có hoạt động khai thác than, vấn đề bồi lấp sông suối do nước thải mỏ cũng chưa giải quyết được triệt để, cảnh quan môi trường chưa được phục hồi. Đó là những tồn tại lớn trong công tác bảo vệ môi trường của Tổng Công ty Than Việt Nam.
Chủ trương và các biện pháp chủ yếu của công tác bảo vệ môi trường trong 10 năm tới.
Theo qui hoạch phát triển ngành Than đến năm 2010 và dự báo đến năm 2020, sản lượng than sẽ không ngừng tăng lên để đảm bảo nhu cầu than cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu. Năm 2005, sản lượng than dự kiến đạt 30 triệu tấn than nguyên khai. Năm 2010, sản lượng than khai thác khoảng trên 40 triệu T, dự báo đến năm 2020 sản lượng sẽ vượt 50 triệu T, chủ yếu là từ vùng than Quảng Ninh và vùng than Đồng bằng sông Hồng. Diện mạo vùng mỏ Quảng Ninh sẽ có nhiều biến đổi. Tại vùng Cẩm Phả, sẽ xuất hiện cụm mỏ hầm lò Khe Chàm và các nhà máy tuyển mới; tuyến đường 18A Cửa Ông – Mông Dương có thể sẽ chuyển thành tuyến đường chuyên dụng chở than; hệ thống đường sắt khu vực sẽ được qui hoạch lại; các mỏ lộ thiên lớn Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai sẽ tiếp tục xuống sâu trong một không gian chung. Tại vùng Hạ Long, khai thác lộ thiên được xem xét kết thúc sớm hơn dự định trước đây; sẽ xuất hiện hệ thống đường bộ liên mỏ chuyên dùng từ Hạ Long qua Ngã Hai đến Khe Chàm; than từ các mỏ về nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh sẽ được vận chuyển bằng băng tải kín hoặc ô tô theo tuyến đường chuyên dụng. Tại vùng Uông Bí - Đông Triều, tuyến đường sắt Vàng Danh – Uông Bí - Điền Công sẽ được cải tạo và nâng cao năng lực vận chuyển, sẽ xuất hiện nhà máy nhiệt điện Mạo Khê vào trước năm 2010 và Điền Công vào ngay sau năm 2010. Tại khu vực Thái Nguyên – Lạng Sơn, các mỏ Núi Hồng, Khánh Hoà tiếp tục nâng cao sản lượng; mỏ Na Dương cũng sẽ được tăng công suất để đảm bảo cung cấp than cho nhà máy nhiệt điện Na Dương. Dự kiến, khoáng sàng than nâu Bình Minh – Khoái Châu sẽ bắt đầu tham gia sản lượng vào năm 2015. Với viễn cảnh đó, công tác bảo vệ và phòng ngừa sự cố môi trường của Than Việt Nam sẽ như thế nào?
Tư tưởng chỉ đạo đối với công tác bảo vệ và phòng ngừa sự cố môi truờng giai đoạn 2005 - 2010 và những năm tiếp theo của Tổng Công ty Than Việt Nam là, sẽ chuyển hẳn sang thế chủ động bảo vệ môi trường với các giải pháp sau đây:
Công tác tuyên truyền, giáo dục bảo vệ môi trường cho công nhân, cán bộ ngành Than sẽ được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh để ý thức bảo vệ môi trường sẽ trở thành tự giác trong mỗi người.
Than Việt Nam sẽ tiếp tục chủ động đề xuất và phối hợp với tỉnh Quảng Ninh xây dựng các kế hoạch và dự án bảo vệ môi trường; thực hiện Dự án tổng thể khắc phục ô nhiễm môi trường do khai thác than nhiều năm ở Quảng Ninh và xây dựng các dự án khác; hợp tác trồng rừng lấy gỗ trụ mỏ với các lâm trường của Quảng Ninh. Các dự án cải tạo môi trường theo Quyết định 64/2003/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã được bắt đầu thực hiện từ năm 2004 sẽ được tiếp tục. Ngoài các công trình, dự án của các đơn vị thành viên vẫn được thực hiện theo kế hoạch môi trường hàng năm, Than Việt Nam sẽ thực hiện các dự án cải tạo môi trường có qui mô vùng như Tăng cường năng lực vận tải đường sắt Vàng Danh - Điền Công nhằm hạn chế vận chuyển than bằng ôtô qua khu vực thị xã Uông Bí, Di chuyển kho Khe Ngát ra khỏi khu vực trung tâm thị xã Uông Bí, Cải tạo hệ thống thoát nước vùng Khe Chàm – Dương Huy... Việc hợp tác trồng rừng lấy gỗ trụ mỏ với các lâm trường Quảng Ninh vẫn sẽ được tiếp tục duy trì.
Trong khai thác than, sẽ áp dụng các công nghệ sạch nhằm ngăn chặn nguồn gây ô nhiễm ngay từ thượng nguồn. Các bã thải từ quá trình khai thác, sàng tuyển than sẽ được tận thu nhằm tiết kiệm tài nguyên và tái sử dụng như nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng để tạo thêm sản phẩm xã hội, tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện môi trường.
Đối với các nhà máy nhiệt điện chạy than do Than Việt Nam làm chủ đầu tư, sẽ tiếp tục sử dụng công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn (CFB) nhằm sử dụng triệt để than chất lượng thấp và giảm thiểu tối đa tác nhân gây ô nhiễm.
Việc xử lý nước thải mỏ đủ tiêu chuẩn nước thải công nghiệp sẽ được bắt đầu thực hiện từ năm 2005 và đến năm 2015 sẽ hoàn thành việc áp dụng bắt buộc đối với tất cả các công ty mỏ trong toàn Tổng Công ty.
Cải thiện môi trường làm việc trong các mỏ, kể cả mỏ hầm lò, các nhà máy... cho thợ mỏ và công nhân; đẩy mạnh và nhân rộng mô hình văn phòng doanh nghiệp – công viên; giữ vững và nâng cao đặc trưng văn hoá doanh nghiệp ngành Than.
Quỹ Môi trường Than Việt Nam sẽ được sử dụng ngày một hiệu quả với hình thức đầu tư có vay có trả, nhằm bảo tồn và phát triển Quỹ, làm cơ sở cho việc thực hiện các dự án môi trường.
Các dự án mỏ mới sẽ được qui hoạch và thiết kế có gắn kết với nhiệm vụ bảo vệ, cải thiện môi trường. Theo phương châm này, Than Việt Nam đã đề xuất với tỉnh Quảng Ninh để thực hiện dự án Qui hoạch và thiết kế khai thác mỏ Quảng La cùng với việc khai thác và bảo vệ nguồn nước hồ Yên Lập; Qui hoạch khu vực hồ Cẩm Thuỷ – Cẩm Phả thành khu điều dưỡng, nghỉ ngơi và du lịch cho thợ mỏ và cộng đồng dân cư trong vùng.
Diện mạo vùng mỏ ngày nay đã có thay đổi, mặc dù vẫn còn nhiều điều trăn trở, day dứt vì thợ mỏ vẫn phải sống chung với bụi, con em thợ mỏ vẫn còn thiếu chỗ chơi. Còn rất nhiều việc phải làm và còn phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả mới có thể có được một môi trường xanh, sạch, đẹp với đúng nghĩa của nó dành cho cộng đồng và những thế hệ thợ mỏ mai sau. Với truyền thống Kỷ luật và Đồng tâm, chắn chắn công nhân, cán bộ ngành Than và cộng đồng dân cư sẽ thực hiện được mục tiêu cao đẹp đó./.