Từ khóa:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng và quốc gia. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Do vậy, để thực hiện hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, việc hệ thống kinh nghiệm thực tiễn là hết sức cần thiết, nhằm rút ra bài học kinh nghiệm đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn các tỉnh vùng Tây Nam bộ.
Từ khóa: Chuyển dịch, cơ cấu kinh tế ngành, phát triển bền vững, kinh nghiệm, Tây Nam bộ.
1. Một số quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hiện nay ở nước ta và thế giới có nhiều cách tiếp cận như sau:
Thứ nhất, “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành” .
Thứ hai, “Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp được hình thành trên các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau và phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Thứ ba, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải bảo đảm có được sự tăng trưởng kinh tế dương, hiệu quả, ổn định và đạt ở mức cao; bảo đảm sự vững chắc cần thiết của hệ thống kinh tế, tránh và giảm thiểu rủi ro, có khả năng cạnh tranh; tránh được sự trì trệ, suy thoái và đổ vỡ kết cấu của nền kinh tế, ít bị tổn thương từ những thay đổi ở bên ngoài; ít hoặc không gây phương hại cho môi trường tự nhiên; bảo đảm xã hội phát triển tiến bộ, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội; tham gia quá trình hội nhập quốc tế chủ động và có hiệu quả”.
Trong từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, thuật ngữ: (chuyển dịch cơ cấu kinh tế - Transmitation de structure esconomique) là quá trình thay đổi các quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế dưới sự tác động và điều tiết chủ động của nhà nước. Nhà nước với chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, xác định phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo các điều kiện, thực hiện các biện pháp thích hợp để thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có sự khác biệt và có sự giống nhau. Sự giống nhau thể hiện thống nhất về tương quan tỷ lệ, có mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế, chuyển dịch nhằm tăng trưởng và bản chất của quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Sự khác nhau rất mỏng, khó xác định được ranh giới giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu, làm rõ trong thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới tư duy về quản lý kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Như vậy, cách tiếp cận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, chưa có sự thống nhất chung của các nhà nghiên cứu và quản lý kinh tế ở trong nước và ngoài nước
2. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
2.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh
Trong thời gian vừa qua, thành phố đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) một cách toàn diện cả về chất và lượng. Trong giai đoạn 2005 - 2015, thành phố đã tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhóm giải pháp chủ yếu về cải thiện môi trường đô thị; hoàn tất ban hành các chương trình, đề án và dự án của chương trình hỗ trợ CDCCKT để đưa vào hoạt động.
Thực hiện CDCCKT thành phố theo hướng phát triển dịch vụ và các ngành công nghiệp công nghệ cao; đồng thời, thành phố cũng thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thủ tục xuất nhập cảnh đối với chuyên gia y tế nước ngoài đến Việt Nam; chế độ khuyến khích hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; phân cấp mạnh và đồng bộ hơn cho thành phố trong việc thu hút và cấp phép cho nhà đầu tư trong và ngoài nước thành lập cơ sở giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao; cơ chế phối hợp với các tập đoàn kinh tế nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, tổng công ty nhà nước trực thuộc bộ - ngành Trung ương trên địa bàn thành phố; xây dựng mạng thông tin liên kết về nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố; hỗ trợ thành phố trong quy hoạch và xây dựng Khu đô thị cảng Hiệp Phước, trung tâm thương mại quốc tế tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Xây dựng cơ sở hạ tầng thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao, hình thành đô thị khoa học công nghệ có vai trò thúc đẩy nền tảng kinh tế tri thức, Khu nông nghiệp công nghệ cao là cái nôi tập trung lực lượng sản xuất hiện đại, kết hợp sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao, phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, gây dựng tiềm lực về công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, hình thành giá trị hàng hóa trong chuỗi giá trị gia tăng.
2.2. Kinh nghiệm của Đồng Nai
Với vị trí địa lí thuận lợi: Nằm ở vùng Đông Nam Bộ, là một trong 4 tỉnh nằm trong tam giác vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, kinh tế của các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh Bình Dương - Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó có Đồng Nai có độ tăng trưởng trung bình 10 năm (2005-2015) đạt 12%, khá cao so với bình quân cả nước.
Trong đó, đóng góp chính là nhóm ngành Công nghiệp - Xây dựng, CDCCKT đúng hướng, vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu phát triển, năng lực cạnh tranh cao so với cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: Tăng tỉ trọng ngành Công nghiệp - Xây dựng, và Dịch vụ, giảm tỉ trọng ngành Nông nghiệp. Với việc đặt trọng tâm vào phát triển những ngành công nghệ cao như công nghiệp lắp ráp linh kiện điện tử, công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, công nghiệp dệt may, da giầy, công nghiệp hóa-mĩ phẩm, vật liệu xây dựng…, Đồng Nai phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế kinh tế ngành của tỉnh Đồng Nai đi theo hướng phát triển công nghiệp - xây dựng, tỉnh chú trọng vào xây dựng các khu công nghiệp, các khu chế xuất công nghệ cao để tạo ra nền tảng ban đầu cho sự chuyển dịch kinh tế. Tỉnh đã xây dựng những ngành công nghiệp mũi nhọn làm động lực để kéo nền kinh tế đi lên. Cùng với đó, tăng cường ứng dụng những công nghệ mới, cơ giới hóa nông nghiệp nông thôn để nâng cao năng suất trong lĩnh vực này khi diện tích và lao động trong khu vực này đang bị thu hẹp một cách nhanh chóng.
Như vậy, có thể thấy rõ một điều từ kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Đồng Nai là trên cơ sở tận dụng lợi thế địa lý, tỉnh đã có những chính sách hết sức hiệu quả trong việc lựa chọn cơ cấu ngành mũi nhọn, hợp lý, nhằm khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về các ngành công nghiệp công nghệ cao, từ đó tạo nền tảng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo động lực kéo nền kinh tế đi lên.
2.3. Kinh nghiệm của Đà Nẵng
Một trong những hướng đi đột phá thời kỳ đầu để đẩy mạnh công nghiệp hóa mà Đà Nẵng đã lựa chọn, là ưu tiên phát triển công nghiệp. Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, ngay trong những năm tiếp theo đó, các nhà hoạch định chính sách đã lựa chọn mô hình phát triển của một thành phố có môi trường thân thiện và hiện đại, đưa Đà Nẵng phát triển theo một hướng đi mới, lấy ngành dịch vụ làm chủ đạo. Giai đoạn 2005-2015 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của ngành Dịch vụ với tốc độ tăng bình quân gần 20%/năm, cao hơn gấp hai lần so với giai đoạn 1997-2005. Sự phát triển của ngành Dịch vụ không chỉ đóng góp cao trong cơ cấu GDP mà còn tạo sự chuyển dịch lao động mạnh mẽ ra khỏi ngành Nông nghiệp. Giai đoạn này, lượng vốn đầu tư bắt đầu chảy vào ngành Dịch vụ cao hơn so với các ngành còn lại, với tỷ trọng 70% tổng lượng vốn đầu tư. Sự chuyển dịch trong nội bộ ngành Thương mại, Vận tải, Thông tin liên lạc, Khách sạn, Tài chính... đang tạo ra giá trị tăng thêm của ngành Dịch vụ, làm tăng tỷ trọng đóng góp của ngành trong cơ cấu GDP thành phố.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Đà Nẵng 10 năm qua được các chuyên gia kinh tế đánh giá như một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng sức cạnh tranh ở khu vực dịch vụ với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ước đạt 16%/năm. Kết quả này nhờ việc tập trung chuyển dịch sâu trong nội bộ ngành Dịch vụ, trong đó lựa chọn du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn. Tổng lượng khách du lịch đến thành phố giai đoạn 2003-2013 ước đạt 16 triệu lượt khách, tăng 19,3%/năm; doanh thu du lịch thuần túy ước tăng 23,5%/năm với giá trị năm 2013 ước đạt 2.800 tỷ đồng.
Giữ vững mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị hiện đại, Đà Nẵng đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, để đến năm 2020 cơ bản hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp tục chuyển dịch nhanh theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, để Đà Nẵng sớm trở thành một trong những trung tâm dịch vụ lớn của cả nước, là cửa ngõ giao thương với nước ngoài, có các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn để trở thành các ngành kinh tế chủ lực.
Như vậy, có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng là một minh chứng rõ nhất cho việc lựa chọn mô hình phát triển theo “Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối” hay các “cực tăng trưởng”. Điều này được thể hiện trong chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp vào giai đoạn 2001 - 2005 và phát triển mạnh ngành Dịch vụ giai đoạn 2006 - 2015. Với quan điểm lấy dịch vụ làm chủ đạo, một mặt đóng góp lớn vào GDP, mặt khác tạo sự chuyển dịch lao động mạnh đối với ngành Nông nghiệp (một ngành không phải thế mạnh của Đà Nẵng).
3. Hàm ý một số bài học rút ra cho các tỉnh miền Tây Nam bộ
Các tỉnh vùng miền Tây Nam bộ là một trong nững vùng đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu của khu vực Đông Nam Á gồm 13 tỉnh, thành phố với diện tích tự nhiên toàn vùng là 40.575 km2, với dân số tính đến năm 2014 là 17,4 triệu người, chiếm 20% dân số cả nước. Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương nêu trên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, có thể rút ra bài học hàm ý ccho các tỉnh miền Tây Nam bộ như sau:
Thứ nhất, phải đặt trọng tâm vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ các ngành có năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất lao động cao hơn, đóng góp lớn hơn cho tăng trưởng kinh tế. Là một vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp, vùng Tây Nam bộ có thể thực hiện chủ trương lấy phát triển công nghiệp làm nền tảng, phát triển nông nghiệp công nghệ cao là mũi nhọn và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong chiến lược phát triển công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Tây Nam bộ giai đoạn tới là việc lựa chọn sản phẩm công nghiệp mũi nhọn nhằm khai thác được tiềm năng, thế mạnh của vùng phù hợp với điều kiện tự nhiên, những biến đổi khí hậu và nhu cầu, thị hiếu trên thị trường thay thế các sản phẩm truyền thống (xi măng, vật liệu xây dựng, gốm sứ...) hiện đang gặp khó khăn trong quá trình cạnh tranh về chất lượng và giá cả trên thị trường do sự lạc hậu về công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng về nông nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, kiên trì phương châm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo kiểu “cuốn chiếu”, thực hiện xây dựng ngành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, lấy hiệu quả làm thước đo, hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, chủ lực tạo thành các cực tăng trưởng nhằm tạo ra các tác động lan tỏa thúc đẩy các ngành khác phát triển (kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đà Nẵng). Thực hiện lựa chọn các ngành, các sản phẩm phù hợp với từng vùng, địa phương và trong từng giai đoạn nhằm tạo ra các sản phẩm mũi nhọn, ngành mũi nhọn, vùng mạnh đóng vai trò “đầu tàu” kéo theo sự phát triển của các sản phẩm, ngành và địa phương khác trong vùng. Do đó, rất phù hợp với các tỉnh Tây Nam bộ trong điều kiện hiện nay đã bắt đầu xuất hiện một số ngành, sản phẩm, vùng có thể đóng vai trò mũi nhọn như ngành Dịch vụ (công nghiệp chế biến, du lịch), sản phẩm có sức cạnh tranh cao và có thương hiệu (Đạm Cà Mau, Tôm, xi măng…), một số địa phương đang có sự bứt phá mạnh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng (Long An, An Giang, thành phố Cần Thơ, Kiên Giang và đặc biệt là Phú Quốc…).
Thứ ba, hình thành các yếu tố mới, thị trường công nghiệp chế biến, dịch vụ, du lịch trong vùng phát triển mạnh, gia tăng thu hút đầu tư trên địa bàn vùng. Đây là, những tiềm năng mới thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn vùng Tây Nam bộ theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp và trong nội bộ ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi theo hướng tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng giai đoạn.
Thứ tư, giữ vững mục tiêu phát triển kinh tế nhanh gắn với phát triển đô thị và bảo vệ môi trường sống văn minh, hiện đại, từng bước giảm chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo an sinh xã hội… (kinh nghiệm của Đà Nẵng). Đặc biệt trong giai đoạn tới, trước những yêu cầu của mục tiêu phát triển theo chiều sâu, đặt ra những yêu cầu mới cho vùng trong việc lựa chọn mô hình phát triển có môi trường thân thiện, hiện đại, giảm ô nhiễm, từng bước xóa bỏ hình ảnh về một vùng sản xuất nông nghiệp có mức độ ô nhiễm cao, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống người dân trong điều kiện biến đổi khí hậu và ngập mặn, hạn hán như hiện nay.
Thứ năm, nghiên cứu qui hoạch vùng Tây Nam bộ giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và 2050, với các giải pháp thu hút các nguồn lực trong nước và ngoài nước phát triển hạ tầng kỹ thuật cho toàn vùng, tạo sự kết nối nội vùng và ngoài vùng trong mạng lưới giao thông thủy, bộ, đường sắt và đường biển và hàng không với khu vực Đông Dương và các nước trong khối ASEAN, hình thành các đầu mối giao thông tầm cỡ khu vực và quốc tế. Tập trung các nguồn lực và sớm nghiên cứu có kết quả để có các biện pháp phòng ngừa hạn hán, ngập mặn và nước biển dâng trong điều kiện biến đổi khí hậu và phòng ngừa tác động do khai thác thủy điện, ngăn và nắn dòng sông Mêkông trên thượng nguồn của các nước phía thượng nguồn.
Như vậy, có thể nói, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển theo chiều sâu, trong thời gian tới, vùng Tây Nam bộ cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kinh tế nhằm tăng trưởng có hiệu quả, chất lượng và phát triển bền vững.
Kết luận:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phát triển theo chiều sâu, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường là mục tiêu chiến lược phát triển cho các tỉnh miền Tây Nam bộ trong thời gian tới. Nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cần vận dụng lý luận và kinh nghiệm của các nước và địa phương đi trước để thực hiện có hiệu quả đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Mai Ngọc Cường (chủ biên), Đại học Kinh tế quốc dân (1996): Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà Xuất bản thống kê, Hà Nội.
2. Cổng Thông tin điện tử UBND TP. Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng và tỉnh Đồng Nai.
3. GS. Mai Hữu Khuê (2002): Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính“. NXB lao động. Hà Nội.
4. Trung tâm biên soạn từ điển quốc gia (1995): Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Restructuring the sectoral economy in some provinces and cities and study the situation in the southwestern provinces
Post Graduate student, MA. PHAN THI CAM GIANG
Labour, War invalids and Social Affairs Department of Can Tho
Abstract:
Economic restructuring is an indispensable requirement of the socio-economic development of the nation in general and nation. Vietnam is in the process of boosting the economic structure of the sector. Therefore, in order to effectively carry out the sectoral economic restructuring process, it is necessary to draw lessons from the economic restructuring process of the provinces in the southwestern region.
Keywords: Shift, sectoral economic structure, sustainable development, experience, Southwest provinces.