Công nghệ thông tin Việt Nam đến năm 2005

Trong những năm qua và hiện nay, công nghệ thông tin và viễn thông (CNTT&VT) đang được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các cấp các ngành. Vậy, trong năm 2003, CNTT & VT sẽ phát triển ra sa

Tình hình CNTT Việt Nam trong năm 2003      

Theo nhiều chuyên gia về lĩnh vực CNTT&VT thì trong năm 2003, với sự quan tâm  và tạo mọi điều kiện của Đảng và Nhà nước, sẽ là năm đột phá Internet, 100% trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông sẽ có kết nối mạng. Bên cạnh đó, giá cước VT và Internet sẽ tiếp tục giảm, cùng với việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, với nguồn nhân lực CNTT trẻ và dồi dào, ngành CNTT chắc chắn sẽ có nhiều khởi sắc. Ngày 4-4-2003, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển và Bộ trưởng Bộ Bưu chính và Viễn thông Đỗ Trung Tá đã ký biên bản ghi nhớ: Hợp tác xây dựng mạng Edunet. Theo đó, hai bộ sẽ chỉ đạo các đơn vị liên quan hoàn thiện đề án xây dựng mạng giáo dục; phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư ban hành chính sách ưu đãi về truy cập Internet cho những cơ sở giáo dục và đào tạo; đề xuất với Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT dành một phần kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho việc xây dựng nội dung thông tin và triển khai các ứng dụng trên mạng giáo dục; đẩy mạnh việc kết nối Internet tới tất cả các trường ĐH, CĐ và phổ thông. Edunet được Bộ Giáo dục & Đào tạo phê duyệt hồi tháng 12/2001. Trung tâm CNTT Bộ Giáo dục & Đào tạo là cơ quan chủ trì Đề án trị giá 45 triệu USD này. Đề án được chia làm 4 phần chính: Xây dựng hạn tầng cơ sở (gồm hạ tầng viễn thông quốc gia và hạ tầng mạng của từng đơn vị); Xây dựng nội dung (khoá học, tài liệu dạy và học, e-learning); Đào tạo cán bộ, chuyên gia, bảo dưỡng và vận hành; Xây dựng phòng điều khiển mạng.

Mục đích năm 2003 là phấn đấu để 1.900 trường THPT được kết nối Internet. Tính đến hết tháng 2/2003, mới có 15% trong tổng số 1379 trường THPT được kết nối Internet, chủ yếu qua mạng điện thoại và tập trung ở các thành phố lớn.

Được biết, năm 2003 Nhà nước chi cho lĩnh vực CNTT tăng gấp 2-3 lần so với năm 2002. Công tác quản lý CNTT được tăng cường qua việc thành lập Ban chỉ đạo 58 do Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm phụ trách và Bộ Bưu chính Viễn thông là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực CNTT. Như vậy, CNTT không những được đầu tư về tiền của, được ưu ái “đầu ra”, mà còn có Ban chỉ đạo nhà nước do Phó Thủ tướng đứng đầu, cộng thêm Bộ BCVT -  cơ quan quản lý nhà nước về CNTT, chắc chắn sẽ phát triển hơn các năm trước. Ngoài ra, tháng 11 năm 2003, Chính phủ còn đứng ra tổ chức Hội nghị ASSOSIO sẽ có 20 nước và các bộ trưởng phụ trách CNTT tham  gia. Đây là cơ hội lớn cho ngành CNTT hội nhập và phát triển.

Theo dự báo, năm 2003, máy tính thương hiệu Việt Nam có 5 loại và có khả năng chiếm 30% thị phần máy tính trong nước và đang có uy tín đối với người tiêu dùng, đã có một thương hiệu máy tính Việt Nam được chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao trong năm 2002. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của CNTT là phần mềm thì không mấy sáng sủa. Tốc độ tăng trưởng về phần mềm vẫn dậm chân ở 15%/năm và chưa có dấu hiệu khởi sắc. Tuy nhiên năm 2003, cũng là năm bắt đầu có những thay đổi về áp dụng Luật Bản quyền. Hiệp định thương mại Việt Nam  - Hoa Kỳ, có hiệu lực về bản quyền từ tháng 6/2003, sẽ gây sức ép đối với các cơ quan nhà nước. Từ đó, tạo ra nhu cầu phát triển phần mềm nội địa có khả năng thay thế sản phẩm nhập ngoại. Đồng thời, việc tôn trọng bản quyền cũng kích thích các công ty đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu sản xuất phần mềm.

Có những nhận định cho rằng, mức tăng trưởng Internet lớn nhất sẽ được ghi nhận ở các trường đại học. Số lượng thuê bao Internet sẽ vượt con số 1 triệu. Internet Việt Nam sẽ đổi mới hơn nhiều và số người dùng tăng gấp 3 lần trong năm 2003 so với các năm trước. Riêng việc chi hơn 4.000 tỷ đồng cho Đề án 112 và các dự án trong cơ quan Chính phủ đến năm 2005 sẽ tạo doanh số CNTT từ thị trường trong nước đạt gần 300 triệu USD, cộng với những khoản chi khác cho doanh nghiệp, ngân hàng và các ngành khác thì 500 triệu USD doanh thu đến năm 2005 là khả thi.

Sự ra đời và hoạt động chính thức của Bộ BCVT, cùng với kinh phí thường niên của các cơ quan nhà nước dành cho CNTT, sẽ tạo ra thị trường CNTT sôi động hơn. Năm 2003, sẽ có nhiều chính sách về CNTT ra đời và đây cũng là động lực thúc đẩy và tạo điều kiện cho CNTT&VT phát triển.

Tuy nhiên, ngược với những nhận định mang tính lạc quan trên thì cũng xuất hiện không ít những ý kiến khác. Thí dụ, có ý kiến như sau:” Mạng giáo dục, kết nối Internet vào trường học, hỗ trợ tuyển sinh...sẽ được triển khai mạnh. Cả hai bộ trưởng GD&ĐT và BCVT đang đốc thúc đẩy nhanh tiến độ kết nối Internet vào tất cả các trường đại học và phổ thông trung học. Còn CNTT ở các ngành khác, chưa hình dung sẽ có những gì nổi bật thật sự. Xuất khẩu phần mềm, và mục tiêu xuất khẩu 500 triệu USD (kể cả xuất khẩu nội địa) vào năm 2005, thật đáng nghi ngờ. Hiệu quả của Đề án 112 chưa có gì đảm bảo là đạt mục đích đề ra....Ngoài ra, việc xây dựng mạng Edunet cũng không hoàn toàn thuận lợi. Vì hiện nay, khó khăn không nhỏ là các trường rất ít máy vi tính so với số lượng học sinh, đồng thời giáo trình giảng dạy thiếu đồng bộ.

Xem ra, bức tranh về CNTT vẫn còn đang là vấn đề phải bàn một cách nghiêm túc. Nếu chúng ta không tính toán cẩn thận mà đã đầu tư một lượng tiền của không nhỏ mà không mang lại hiệu quả như mong muốn, thì là sự lãng phí lớn trong ngành CNTT. Rất mong những nhà chiến lược Việt Nam hãy cẩn thận khi quy hoạch, xây dựng chiến lược cho ngành kinh tế mũi nhọn này.

Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với CNTT

Có thể nói, hiếm có ngành nào non trẻ mà được hệ thống chính sách, văn bản pháp luật từ cấp cao nhất Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành nhiều như vậy (một loạt văn bản) để thúc đẩy sự phát triển như ngành CNTT. Tuy nhiên, với một loạt chính sách ưu đãi như vậy, tốc độ phát triển của ngành CNTT vẫn còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngay sau khi thống nhất đất nước, trong 2 năm 1975và 1976 Hội đồng Chính phủ đã hai lần ra nghị quyết số 173 năm 1975 và 245 năm 1976 về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong quản lý kinh tế, tăng cường quản lý và sử dụng máy tính trong cả nước. Nhưng, thực chất khởi động cho quá trình tin học hoá, tạo ấn tượng mạnh đến dư luận trong và ngoài nước chính là Nghị quyết 49/1993/NQ-CP năm 1993 của Chính phủ. Lúc đó,CNTT đã được kỳ vọng ứng dụng rộng rãi, sẽ “tạo ra một sự cải tiến và đổi mới sâu sắc trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và CNTT phải trở thành đòn bẩy thúc đẩy công cuộc đổi mới của chúng ta”. Nếu đứng trên góc độ kinh tế, CNTT cũng được kỳ vọng sẽ là “ngành công nghiệp mũi nhọn góp phần chuẩn bị cho nước ta có vị trí xứng đáng trong khu vực khi bước vào thế kỷ 21”. Năm 2000, với Chỉ thị 58, Bộ Chính trị đã thể hiện một sự hậu thuẫn rất lớn, tạo động lực cho sự phát triển và ứng dụng CNTT cho những năm đầu của thế kỷ 21. Ngoài ra, năm 1997 còn có Quyết định 280 của nguyên Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt về việc cho thành lập mạng diện rộng Chính phủ Cpnet nối liền 61 tỉnh thành trong cả nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Chỉ thị 29 và 58, Quyết định 81...Năm 1997, Chính phủ đã chi 12 tỷ đồng cho mạng diện rộng Cpnet.

Nhưng thật đáng buồn, khi một báo cáo của Đại học Havard Mỹ phối hợp với Ngân hàng thế giới cùng thực hiện, khảo sát sự sẵn sàng cho thế giới nối mạng trên phạm vi toàn cầu, trong đó có các chỉ tiêu như: hạ tầng CNTT, thương mại điện tử, đào tạo và đáng chú ý có cả sự đánh giá về trình độ quản lý nhà nước về CNTT, thì trong 75 nước được khảo sát, Việt Nam đứng thứ 74, chỉ trên Nigieria. Không cần so sánh đâu xa, ngay trong khu vực Đông Nam á, Việt Nam đã bị tụt hậu rất xa so với Singapore, Malaysia và Thái Lan, thậm chí, kể cả với Philippines và Indonesia và không biết bao giờ chúng ta mới có thể san bằng được khoảng cách. Do đó, một giám đốc một công ty phần mềm nổi tiếng của Việt Nam đã thốt lên:” Nói một cách nghiêm túc, chúng tôi là dân CNTT, chúng tôi xấu hổ vì CNTT chưa phải là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chưa phải là mũi nhọn phát triển”. Trong khi đó, có tổng giám đốc một công ty về tin học lại cho rằng, Nhà nước Việt Nam chưa có bất kỳ một thời kỳ nào có một tổ chức ổn định về quản lý CNTT, kể cả thời kỳ có Chương trình quốc gia về CNTT thì Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia về CNTT cũng chỉ là Ban tư vấn cho Chính phủ mà thôi, họ không phải là cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, chúng ta đã không có sự đồng bộ giữa chính sách và cơ quan quản lý về CNTT.

Như vậy, CNTT không phát triển thì có quan điểm cho rằng, tại những người làm công tác CNTT không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, ngược lại có người lại đổ lỗi cho cơ chế quản lý. Có lẽ, đúng nhất là do chúng ta đã vội nghe một số người có lời nói “có cánh”, nên đã vội hoang tưởng đặt ra nhiều kỳ vọng vào CNTT.

500 triệu USD phần mềm vào năm 2005: Nhiệm vụ bất khả thi.

Mục tiêu về doanh số phần mềm nội địa và xuất khẩu tới năm 2005 của nước ta sẽ là 500 triệu USD là một con số thực ra rất khiêm tốn so với xuất khẩu dầu thô, thậm chí so với thuỷ sản hay gia công dệt may ...

Việc phát triển phần mềm dựa chủ yếu vào chất xám đội ngũ lập trình viên, còn đầu tư vào phòng ốc, máy tính... được coi là không đáng kể. Tiềm năng phát triển phần mềm Việt Nam được coi là rất lớn, nhưng mới chỉ dừng ở mức tiềm năng. Con số 500 triệu USD không phải là không có cơ sở, khi dựa vào tiềm năng, nhưng trên thực tế lại không phải như vậy. Nguồn nhân lực có chất lượng cho công nghệ phần mềm còn quá ít, tiếng Anh kém, cộng đồng làm phần mềm Việt Nam còn nhỏ bé và không gây được ấn tượng tốt với các công ty lớn. Điều này ảnh hưởng đến việc giành hợp đồng lớn từ nước ngoài. Không ít trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam muốn tìm lực lượng sẵn sàng đáp ứng yêu cầu lập trình vớiquy mô lớn, nhưng chúng ta không đáp ứng được. Bản thân các công ty phần mềm Việt Nam (có khoảng 80 công ty, chủ yếu là TNHH) chỉ mới tập trung vào công nghệ, kỹ thuật làm phần mềm. Còn vấn đề nghiên cứu nhu cầu thị trường, khả năng bán hàng đến đâu thì còn rất yếu. Đây chính là khâu quan trọng để phần mềm có thể trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Một thách thức khác là vấn đề chất lượng, yêu cầu về chất lượng phần mềm rất cao, đặc biệt trong lĩnh vực gia công xuất khẩu.

Doanh số phần mềm Việt Nam năm 2002, theo dự báo của PC Worrld Việt Nam khoảng 75 triệu USD, so với 60 triệu USD năm 2001. Nhiều chuyên gia phần mềm cho rằng năm 2003 doanh thu phần mềm cũng chỉ đạt 100 triệu USD và cứ theo tốc độ tăng trưởng đó thì năm 2005 sẽ là 190 triệu USD. Theo tính toán được coi là táo bạo nhất của Tổng Biên tập PC World Việt Nam, thì đầu tư cho phần mềm và dịch vụ trong nước không quá 300 triệu USD vào năm 2005. Điều này còn  phụ thuộc vào khả năng đầu tư của cả nền kinh tế cho việc sử dụng CNTT.

Xung quanh con số 500 triệu USD này, có nhiều dư luận khác nhau. Cách đây 2 năm, có người cho rằng, con số đó quá thấp. Nhưng hiện nay, nhiều người khẳng định, con số 500 triệu USD là không thể, với sức sản xuất của Việt Nam, khi mà một quốc gia chưa có tên trong bản đồ phần mềm thế giới.

Thực tế cho thấy, nhiều trung tâm phần mềm ở các địa phương như Đà Nẵng, Nghệ An, Cần Thơ...ra đời nhưng chủ yếu phục vụ cho đào tạo là chính. Mặc dù, Chính phủ đã cam kết đầu tư từ 50 đến 70 triệu USD cho phát triển nguồn nhân lực, nhưng riêng về chiến lược phát triển nguồn nhân lực CNTT cũng cần phải xem xét lại. Đại học đào tạo đã đành, các địa phương cũng đua nhau mở lớp đào tạo. Phải chăng, việc đào tạo ồ ạt như vậy là để chạy theo con số 5 vạn lập trình viên, doanh số 500 triệu USD vào năm 2005?

Để thay cho lời kết, xin nêu ý kiến của ông Nguyễn Hữu Hiên, Giám đốc Khu công nghệ phần mềm SSP: ở đây gây ngộ nhận, một sự đặt niềm  tin không đúng thời điểm cho những chương trình rất lớn, tôi cho rằng, đó là việc rất đáng trách, vì lãnh đạo Nhà nước đặt, kỳ vọng lớn lao như thế, nhưng những người làm khoa học không nghiêm túc, tôi cho là rất tai hại cho đất nước”.

Muốn cho CNTT Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn còn rất nhiều việc phải làm, nhất là không thể dựa trên những tính toán cảm tính, duy ý chí mà vạch chiến lược phát triển CNTT./.

  • Tags: