Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm
Đây là ngành mũi nhọn của tỉnh Tiền Giang tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: Xay xát lương thực, chế biến thủy sản, rau quả, rượu bia, nước giải khát, thức ăn gia súc, bánh kẹo, nước mắm… Năm 1995 chỉ có 1.940 cơ sở với 10.424 lao động, năm 2000 lên tới 2.069 cơ sở với 11.559 lao động, đến năm 2004 đã phát triển thành 3.055 cơ sở, trong đó có 7 doanh nghiệp nhà nước, 3 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với 18.366 lao động, trong đó có 1.394 lao động thuộc khu vực kinh tế nhà nước, 399 lao động thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện tại, ngành công nghiệp chế biến đang chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng ngày càng tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh (giá hiện hành). Năm 1995 chiếm 77,5%; năm 2000 chiếm 78,13%; năm 2004 thực hiện được 4962 tỷ đồng, chiếm 81,3% giá trị toàn ngành công nghiệp trên địa bàn.
Chế biến lương thực: Đây là ngành phát triển khá mạnh với khoảng 1.127 cơ sở xay xát, xoa bóng, tổng công suất các nhà máy đã lên đến gần 4 triệu tấn/năm, sản lượng xay xát, xoa bóng khoảng 1,8 triệu tấn. Nhu cầu xay xát lương thực tại chỗ hằng năm chỉ vào khoảng 800 - 900 ngàn tấn, phần còn lại là từ các tỉnh lân cận. Theo kết quả nghiên cứu của Sở Công nghiệp, nhìn chung, trình độ công nghệ của ngành xay xát Tiền Giang đạt mức tiên tiến so với khu vực, nên khi hội nhập kinh tế quốc tế, ngành này có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu.
Chế biến rau quả: Toàn tỉnh hiện có 02 doanh nghiệp chủ lực là Công ty Rau quả Tiền Giang và Công ty TNHH Thịnh Phát. Hai công ty này luôn được tỉnh quan tâm, tạo điều kiện đã không ngừng tập trung đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trái cây đóng hộp và nước quả cô đặc. Công ty Rau quả Tiền Giang là một trong những đơn vị có quy mô lớn trong ngành chế biến rau quả Việt Nam, đã góp phần đáng kể vào việc tiêu thụ nông sản cho nông dân, nhất là cây khóm. Giai đoạn 1996 – 2000, giá trị sản xuất của Công ty tăng bình quân 34,95%/năm. Giai đoạn 2001-2004, giá trị sản xuất tiếp tục tăng 19,60%/năm, năm 2004, sản xuất được 5.696 tấn đồ hộp các loại và 3.480 tấn nước quả cô đặc. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là ngoài cây khóm, các sản phẩm nông nghiệp còn lại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu của công nghiệp chế biến về chất lượng, chủng loại, giá thành và số lượng do sản xuất không tập trung.
Công ty TNHH Thịnh Phát (thị xã Gò Công) được đầu tư và đưa vào hoạt động, chủ yếu là sản xuất sơ ri xuất khẩu, công suất 40 tấn nguyên liệu/ ngày, đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết đầu ra cho trái sơ ri - đặc sản của Gò Công. Hoạt động trong lĩnh vực này có 02 doanh nghiệp qui mô công nghiệp là Công ty Rau quả và Công ty TNHH Thịnh Phát có vốn đầu tư khá hiện đại, mô hình đồng bộ gắn vùng nguyên liệu với sản xuất chế biến của nhà máy với công nghệ chủ yếu ở khâu cô đặc, đóng hộp và đông lạnh đạt mức hiện đại, sản phẩm của các doanh nghiệp này đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường, được cấp chứng chỉ về Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002.
Chế biến đồ uống: Chủ yếu vẫn là các sản phẩm bia và nước ngọt của Công ty TNHH Foster’s, với tổng công suất trên 65 triệu lít. Nhìn chung, sản lượng không ổn định do cạnh tranh rất gay gắt. Năm 1995, sản xuất 39,5 triệu lít bia, đến năm 1997 còn 16,8 triệu lít, bình quân giai đoạn 1996-2000 giảm 9,3%/năm, năm 2001 tăng lên 30,9 triệu lít, năm 2004 giảm xuống còn 14,6 triệu lít, bình quân giai đoạn 2001-2004 giảm 11,9%/năm. Tuy nhiên, sau khi xác định lại thị trường mục tiêu, năm 2005, tình hình sản xuất của Công ty TNHH Foster’s đã có những dấu hiệu khả quan: Sản lượng tăng 70% so với cùng kỳ năm trước.
Chế biến thuỷ sản: Phát triển đều các sản phẩm truyền thống như nước mắm, cá khô, mắm ruốc, mắm tôm chà … nhưng với mặt hàng chế biến thủy sản xuất khẩu (tôm, cá da trơn) trên địa bàn Tỉnh đang có xu hướng phát triển mạnh. Giai đoạn 1996-2000, toàn tỉnh chỉ có 2 doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu là Công ty Thủy sản Tiền Giang và Xí nghiệp tư doanh Sông Tiền 2 (nay là Công ty TNHH TM Sông Tiền) với tổng công suất khoảng 7.000 tấn/năm, đến nay đã có 6 doanh nghiệp qui mô lớn đang hoạt động với tổng công suất trên 30.000 tấn/năm, chưa kể một số doanh nghiệp đang đầu tư, chưa đưa vào hoạt động. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến thủy sản giai đoạn 2001-2004 là 34%, cao hơn 22,2% so với giai đoạn trước đó. Sự phát triển của ngành chế biến thủy sản đã tác động tích cực vào ngành nuôi cá nước ngọt, nhất là nuôi cá bè ven sông Tiền và ngược lại, đây còn là tiềm năng đảm bảo cho chế biến thủy sản phát triển bền vững.
Về khả năng cạnh tranh, được xác định có lợi thế cạnh tranh tốt so với các nước ASEAN, đa số các doanh nghiệp đã đạt được quy trình HACCP, một vài doanh nghiệp đạt được cả code EU, sản phẩm xâm nhập được các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, EU. Cùng với lợi thế lao động và nguồn nguyên liệu trong nước, có thể khẳng định các doanh nghiệp này có đủ khả năng cạnh tranh và phát triển. Vấn đề là phải đảm bảo duy trì được chất lượng và thường xuyên hạ giá thành nguồn nguyên liệu, chi phí cũng như thường xuyên đầu tư nâng cấp, đổi mới công nghệ phù hợp với yêu cầu thị trường; đồng thời tăng cường hơn nữa cho công tác xây dựng thương hiệu, hoạt động tiếp thị và từng bước chuyển dần sang tinh chế.
Chế biến thức ăn chăn nuôi: Tỉnh Tiền Giang có 3 nhà máy có quy mô lớn đang hoạt động, tổng công suất trên 430.000 tấn/năm. Giai đoạn 1996-2000 chỉ tăng bình quân 14,58%/năm; sang giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 46,5%/năm, năm 2002 tăng đột biến lên tới 185% do Chi nhánh Công ty TNHH chăn nuôi CP và Nhà máy Mỹ Tường (Công ty Chăn nuôi) đầu tư công nghệ khá hiện đại đã đi vào hoạt động. Năm 2003 là năm có sản lượng cao nhất đạt (224 ngàn tấn).
Các sản phẩm thức ăn chăn nuôi đã xây dựng được thương hiệu, tạo ấn tượng tốt với khách hàng nên khả năng cạnh tranh là khả quan. Tuy nhiên, vấn đề trở ngại là chất lượng con giống, giá và chất lượng một số nguyên liệu trong nước phục vụ cho sản xuất kém khả năng cạnh tranh nên ảnh hưởng không nhỏ đến lợi thế của ngành so với các nước trong khu vực.
Ngoài ra, Công ty UNI-President cũng đã khởi công xây dựng Nhà máy Thức ăn thủy sản, công suất 156.000 tấn/năm, vốn đầu tư 19 triệu USD tại KCN Mỹ Tho. Hợp tác xã TAGS Bình Minh ở thành phố Mỹ Tho cũng đang đầu tư 23 tỷ đồng trang bị dây chuyền sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm công nghệ hiện đại của Thuỵ Sĩ, công suất 100.000 tấn/năm.
Sản xuất hàng may mặc
Ngành may mặc có tốc độ tăng trưởng khá cao, do có sự quan tâm, khuyến khích đầu tư của tỉnh nhằm góp phần giải quyết việc làm cho người lao động: Giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 9%/năm; giai đoạn 2001-2004 tăng bình quân 23,1%/năm và năm 2004 chiếm 4,61% GTSXCN toàn tỉnh… Năm 1995 có 874 cơ sở với 4.067 lao động, năm 2000 có 654 cơ sở với 4.207 lao động; năm 2004 có 407 cơ sở, trong đó có 5 doanh nghiệp nhà nước, 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với 7.815 lao động, trong đó có 4.475 lao động thuộc kinh tế nhà nước, 990 lao động thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là ngành hiện khá phát triển ở Tiền Giang, do đa số các doanh nghiệp có số lượng trên 400 công nhân, được trang bị kiến thức chuyên môn, trình độ tay nghề và khả năng tổ chức quản lý tốt, giúp cho sản phẩm hợp chuẩn để xuất khẩu. Khâu nghiên cứu thiết kế mẫu được chú trọng, nhiều đơn vị có uy tín cao như Công ty TNHH May Tiền Tiến, Công ty TNHH Nam of London, Xí nghiệp May Mỹ Tho, Xí nghiệp May Sông Tiền. Tuy nhiên, qui mô hiện nay còn nhỏ so với tiềm năng và xu hướng phát triển. Ngoài những doanh nghiệp lớn đã nêu, nhìn chung công nghệ ở một số doanh nghiệp khác có thời gian sử dụng quá dài; hệ số đổi mới và mức độ cơ khí hoá, tự động hoá thấp hơn so với chuẩn trong ngành; năng lực đổi mới sản phẩm còn yếu, nhất là các doanh nghiệp qui mô nhỏ khó đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường EU, Mỹ; hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp do công suất nhỏ, không làm chủ được thị trường mà phụ thuộc nhiều vào việc nhận gia công; thiếu lực lượng lao động kỹ thuật cao làm nhiệm vụ nghiên cứu phát triển.
Có thể nói, ngành công nghiệp may Tiền Giang sẽ có cơ hội mở rộng thị trường, nhưng khi bãi bỏ hạn ngạch sẽ gặp nhiều khó khăn hơn do phải cạnh tranh với Trung Quốc. Do đó vấn đề đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, tăng năng suất và giảm giá thành sản phẩm là việc sống còn của ngành may mặc trong tương lai.