Công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô châu Á

Năm 2005, châu á bước vào thời kỳ tăng trưởng sau khi đã hồi phục lại từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997. Sản xuất ô tô tăng vọt nhờ nhu cầu ở đây tăng nhanh. Xuất khẩu CBU, trên cơ sở cạnh tranh, đ

Các công ty ô tô lớn bắt đầu sản xuất ô tô cho thị trường châu á với các mẫu ô tô phổ biến toàn cầu trong đầu những năm 2000. Các công ty ô tô coi các nhà máy của mình ở châu á và ấn Độ là các cơ sở sản xuất chủ yếu để sản xuất các loại xe này. Họ đã xúc tiến nội địa hoá ở châu á, để cung cấp các linh kiện cho lắp ráp ô tô nội địa. Việc mở rộng sản xuất ô tô đã cổ vũ các nhà cung cấp linh kiện tăng cường năng lực sản xuất đặc biệt là ở Thái Lan và ấn Độ.

Vào năm 2004, sản xuất ô tô ở châu á và châu Đại Dương mới đạt 13 triệu xe và số xe bán ra là 11 triệu chiếc. Xuất khẩu CBU của Hàn Quốc tăng lên tới 2,38 triệu xe, của Thái Lan 350.000 xe, của ấn Độ 200.000 xe và của Trung Quốc khoảng 50.000 xe.

Các công ty sản xuất ô tô có kế hoạch tiếp tục mở rộng sản xuất và xuất khẩu xe tải nhẹ đa dụng sang các thị trường châu á, và xe con loại nhỏ, do chi phí lao động ở đây thấp hơn. Vào năm 2010, xuất khẩu CBU châu á ước tính sẽ tăng lên tới 4,5 triệu xe, trong đó 2,6 triệu xe từ Hàn Quốc, 800.000 từ Thái Lan, 500.000 từ Trung Quốc, 300.000 từ ấn Độ và 150.000 từ Philippines.

Công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô ở châu á cũng được mở rộng để nhằm cung cấp cho các công ty lắp ráp nước ngoài và các công ty nội địa từ cuối những năm 90 và đầu những năm 2000. Thời kỳ hồi phục kinh tế bắt đầu khi hình thành mạng lưới cung cấp nội địa và thành lập các cơ sở sản xuất. Ngành công nghiệp sản xuất linh kiện đã vượt qua được sự cạnh tranh cần thiết để cung cấp cho các nhà sản xuất ô tô nước ngoài tại nước mình và cả cho khách hàng nước ngoài.

Ngành công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô châu á đang mở rộng sản xuất sang nhiều linh kiện khác nhau, vật tư và cả các bán thành phẩm. Tuy nhiên, để theo kịp nhu cầu luôn tăng trưởng về cung cấp linh kiện cho toàn cầu, châu á cần phải có được năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) tầm cỡ quốc tế và trình độ kỹ thuật cao đối với việc thay đổi thiết kế, kiểm tra chất lượng và thử nghiệm. Những năng lực này cho phép châu á trở thành nơi sản xuất và xuất khẩu cho thị trường toàn cầu.

Công nghiệp ô tô châu á bị đình đốn nghiêm trọng khi số lượng xe bán ra giảm đi một nửa vào năm 1998. Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997, các công ty lắp ráp nội địa và các hãng cung cấp bắt đầu mở rộng xuất khẩu để nhằm nâng vận hành máy móc tại các nhà máy.

Vào năm 2003 khi thị trường nội địa tăng trưởng mạnh nhờ có sự hồi phục kinh tế, các công ty ô tô bắt đầu tung ra các mẫu xe phù hợp với thị trường nội địa. Họ cũng tung ra các mẫu xe phổ biến cho thị trường toàn cầu ở châu á và ấn Độ, biến các nước này thành nơi sản xuất duy nhất một số mẫu xe trên thế giới.

Sản xuất đạt 11, 3 triệu xe trong năm 2003, tăng gấp đôi so với năm 1998, và 13 triệu xe trong năm 2004, tăng 15,3% so với các năm trước đó. Bây giờ, các công ty có kế hoạch tăng cường năng lực sản xuất để bắt kịp nhu cầu trong tương lai.

Theo một nghiên cứu gần đây, năng lực sản xuất hàng năm có thể tăng 14 triệu xe năm 2005 lên 17,5 triệu xe năm 2008 ở khu vực châu á và Thái Bình Dương. Trong số các nước châu á, Trung Quốc và ấn Độ là thị trường lớn và tăng trưởng cao, Trung Quốc sẽ mở rộng năng lực sản xuất thêm 2, 7 triệu xe và ấn Độ 450.000 xe.

Châu á đang mở rộng xuất khẩu linh kiện ô tô xét về giá trị và số lượng. Trong bối cảnh này, ngành công nghiệp sản xuất linh kiện đang phấn đấu để có được năng lực về nghiên cứu-phát triển (R & D) với trình độ quốc tế để nhằm nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh về chi phí sản xuất.

Sau năm 2002, khi mà sản xuất các mẫu xe phổ biến cho thị trường toàn cầu hoặc thị trường mới bắt đầu trỗi dậy, thì các nước khuyến khích tăng hàm lượng nội địa hoá. Các nhà cung cấp mở rộng năng lực sản xuất để nâng cấp thiết bị sản xuất hiện có hoặc xây dựng nhà máy mới để phục vụ cả nhu cầu trong nước lẫn xuất khẩu.

ở Trung Quốc, các nhà cung cấp chủ yếu từ Nhật Bản, Bắc Mỹ và châu Âu đang có kế hoạch tăng công suất ở nhiều lĩnh vực bởi vì các công ty sản xuất ô tô đang mở rộng công suất sản xuất. Một mặt khác, một số các nhà cung cấp Nhật Bản mở rộng sản xuất ở Thái Lan khiến cho Thái Lan trở thành một trung tâm sản xuất xe hơi của các nước ASEAN. Trong khi đó, sản xuất động cơ và bộ phận truyền tải lại tăng đáng kể ở ấn Độ.

Nhờ có nội địa hoá và tăng sản xuất linh kiện ô tô ở châu á, hiện nay vài công ty ô tô đã đạt được tỷ lệ nội địa hoá tới 90-96 % hoặc hơn nữa đối với vài mẫu xe, như mẫu xe Toyota IMV, Isuzu D-MAX, Huyundai Santro và Ford Ikon.

Tỷ lệ nội địa hoá của một số mẫu xe đã đạt được ở các nước như sau: Toyota Hilux (Hilux VIGO): 96% ở Thái Lan, 90% ở Malaysia, Toyota Fortuner: 96% ở Thái Lan, 90% ở Malaysia, Toyota Innova: 95% ở Indonesia, Toyota Daihatsu Avanza/Xenia: 80%, Isuzu D-Mã: 95% cho xe tiêu thụ ở Thái Lan và 60 % cho xuất khẩu, Honda City: 83%, Suzuki APV: 70%, Suzuki Swift: 60% ở Trung Quốc, Mitsubishi Strada: 70%, Hyundai Sảnto Xing: 90%, Ford Ikon: 90%.

Châu á giờ đây đóng một vai trò tích cực trong sản xuất và cung cấp trên toàn thế giới. Sản xuất các linh kiện, khuôn mẫu yêu cầu nhiều công lao động đang chuyển đến các quốc gia có chi phí lao động thấp như ấn Độ và Trung Quốc, khiến cho các quốc gia này trở thành cơ sở cung cấp linh kiện cho toàn cầu. Một số hãng cung cấp đang xây dựng cơ sở sản xuất và mạng lưới cung cấp ở các nước đã có hiệp định thương mại tự do trong các nước ASEAN, ấn Độ và các nước khác.

Công nghiệp linh kiện ô tô châu á đang phát triển nhanh được thúc đẩy bởi nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, ngành công nghiệp ở mỗi nước lại ở mức độ phát triển khác nhau do cơ chế, chính sách của chính phủ và các nguyên nhân khác. Trong khi các công ty ô tô và các công ty cung cấp mở rộng sản xuất, chính phủ các nước lại vạch ra chiến lược riêng của mình bằng cách tận dụng lợi thế công nghiệp có sẵn. Vài nước lại tìm cách bảo hộ ngành công nghiệp trong nước, các nước khác lại tìm cách làm cho ngành công nghiệp của nước mình có thể cạnh tranh được trong vùng và trên thế giới.

Trung Quốc và Malaysia đang bảo vệ và khuyến khích các công ty của nước mình bằng cách kiểm soát vốn và hệ thống thuế ưu đãi. Thái Lan và ấn Độ tìm cách tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển và đào tạo nhân lực để nhằm cạnh tranh được, như vậy sẽ giúp cho nâng sản xuất và sẽ trở thành cơ sở cung cấp CBU và linh kiện. Philippines cũng muốn trở thành nhà xuất khẩu CBU trong các nước ASEAN và áp dụng cơ chế khuyến khích đối với làm hàng xuất khẩu. Hàn Quốc, Đài Loan và Australia đang tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển, coi đây là cột trụ cho chiến lược phát triển. Nhờ có trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất cao hơn các nước châu á, Hàn Quốc, Đài Loan và Australia thâm nhập được vào thị trường phát triển như là Nhật Bản, Bắc Mỹ và châu Âu.

Sản xuất linh kiện ô tô và xuất khẩu từ các nước châu á đang được mở rộng. Tuy nhiên, một số nhà cung cấp nội địa không nhận được sự trợ giúp kỹ thuật của các nhà chế tạo nước ngoài và hầu hết các nhà cung cấp này lại thiếu trình độ kỹ thuật cao và năng lực kiểm soát chất lượng. Vì vậy, các nhà cung cấp này chỉ là nhà cung cấp linh kiện cho thị trường trong nước, chưa bao giờ cung cấp được cho các công ty ô tô nước ngoài. Năm 2005, Thái Lan và ấn Độ đã đưa ra chương trình nâng cao trình độ kỹ thuật và phấn đấu đạt được năng lực nghiên cứu- phát triển của thế giới và đang tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu này, trợ giúp kỹ thuật từ các công ty ô tô và công ty cung cấp linh kiện nước ngoài là rất quan trọng cho các nước này.
  • Tags: