Trên cơ sở đó, ngày 04/7/2003, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp ban hành Quyết định số 115/2003/QĐ-BCN quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Công nghiệp địa phương. Đây được xem là thời điểm Cục Công nghiệp địa phương ra đời, thống nhất lấy ngày 04 tháng 7 năm 2003 là ngày thành lập Cục.
Cục Công nghiệp địa phương là đơn vị chuyên trách quản lý, hỗ trợ phát triển công nghiệp ở các địa phương, đồng thời làm nhiệm vụ cầu nối giữa Bộ và các địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ công tác và phối hợp triển khai thực hiện các nhiệm vụ. Vì vậy, Bộ Công nghiệp đã quyết định thành lập Cục Công nghiệp địa phương, nay là Cục Công Thương địa phương.
Từ chức năng, nhiệm vụ được giao, Cục đã tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ, thống nhất đặt ra phương châm hành động, là: “Bắc cầu đi tới thành công” nhằm thể hiện sự nhất quán, kiên định trong đường lối phát triển công nghiệp của Đảng và Nhà nước; thể hiện rõ nhiệm vụ làm cầu nối giữa Bộ với các địa phương nhằm triển khai vụ chung của Ngành và chung tay vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tại Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/ 8/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương, Cục Công nghiệp địa phương chính thức được đổi tên thành Cục Công Thương địa phương. Cùng với việc đổi tên như vậy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Công Thương địa phương được bổ sung thêm nội dung theo dõi, tổng hợp tình hình phát triển thương mại tại các địa phương trong phạm vi cả nước.
Cụ thể, Cục Cục Công Thương địa phương được định hình là tổ chức thuộc Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với lĩnh vực: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (bao gồm làng nghề tiểu thủ công nghiệp); khuyến công; cụm công nghiệp; doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa; tổng hợp chung tình hình phát triển công nghiệp và thương mại tại các địa phương trong cả nước.
Với ba giai đoạn nêu trên, tính đến thời điểm hiện nay, Cục Công Thương địa phương đã hình thành và phát triển được tròn 20 năm.
Xây dựng cơ chế, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật
Ngay từ khi mới được thành lập, Lãnh đạo Cục và các đơn vị thuộc Cục đã xác định, cần tập trung ngay vào nhiệm vụ xây dựng cơ chế, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý và nhiệm vụ của Cục nhằm tạo khung pháp lý, đảm bảo cho việc hỗ trợ phát triển công nghiệp địa phương thành công. Đây cũng là phương châm, chỉ tiêu đặt ra để Cục phấn đấu trong từng giai đoạn.
Văn bản đầu tiên được Chính phủ ban hành, đó là Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09/6/2004 về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn (nay là Nghị định số 45/2012/NĐ-CP ngày 21/5/2012 của Chính phủ về khuyến công). Cùng với Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý phát triển cụm công nghiệp (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020) được xem là khung pháp lý cao nhất để triển khai việc hỗ trợ phát triển công nghiệp tại các địa phương.
Liên tục trong các năm, Cục Công Thương địa phương đã xây dựng nhiều loại văn bản quan trọng; tính từ năm 2004 đến nay, Cục Công Thương địa phương đã chủ trì xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành 31 văn bản, bao gồm: 04 Nghị định của Chính phủ; 04 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 04 Thông tư liên tịch của Bộ Công Thương và các bộ, ngành; 03 Chỉ thị của Bộ Công nghiệp và Bộ Công Thương; 13 Thông tư của Bộ Công nghiệp và Bộ Công Thương; 06 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Trong đó có: 21 văn bản về hoạt động khuyến công; 08 văn bản về quản lý cụm công nghiệp và 03 văn bản liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tiêu chuẩn lãnh đạo Trung tâm Khuyến công cấp tỉnh, quy định công nhận tư vấn viên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành Công Thương.
Công tác xây dựng cơ chế chính sách, văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng kịp thời với chủ trương, đường lối và nhu cầu của xã hội; đảm bảo tính hợp hiến hợp pháp, tính khả thi trong quá trình thực hiện; sát với yêu cầu thực tế, phù hợp với nhiều đối tượng; đáp ứng kịp thời với yêu cầu công tác quản lý nhà nước…
Với nhiệm vụ của một đơn vị đầu mối theo dõi hoạt động quản lý nhà nước về công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, và sau này bao gồm cả thương mại của các địa phương, Cục đã xác định đây là một trong những nhiệm vụ then chốt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của Cục, không chỉ phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển công nghiệp, thương mại của Bộ và các địa phương, nên ngay từ những năm đầu thành lập, Cục đã thường xuyên phối hợp tốt với các các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ, đặc biệt là các Sở Công Thương để triển khai các nhiệm vụ.
Trên cơ sở đó, kịp thời đề xuất, tham mưu, kiến nghị để Lãnh đạo Bộ có những giải pháp chỉ đạo thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại đối với các địa phương; nắm vững tình hình, điều kiện sản xuất công nghiệp từng vùng, những địa phương còn gặp nhiều khó khăn, giúp Bộ tìm biện pháp tháo gỡ, giải quyết; hàng năm tổ chức các Hội nghị ngành Công Thương tại 3 khu vực và các hội nghị chuyên đề nhằm đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của vùng, bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh được các địa phương nhìn nhận, đánh giá cao về tính cần thiết, tính hiệu quả và thành công của các hội nghị.
Bên cạnh đó, một nhiệm vụ cũng rất quan trọng mà Cục đã triển khai trong quá trình phát triển đó là thường xuyên giúp Ban cán sự Đảng Bộ nghiên cứu, đánh giá, tổng hợp các báo cáo tình hình thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phương hướng nhiệm vụ, tầm nhìn các giai đoạn cho các vùng trên cả nước, các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển các tỉnh, thành phố trọng điểm; Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; có ý kiến đối với văn kiện đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố qua các nhiệm kỳ…, qua đó đề xuất, có ý kiến đối với phương hướng phát triển công nghiệp, thương mại tại các vùng, địa phương trên cả nước.
Công tác quản lý và triển khai hoạt động khuyến công
20 năm qua, có thể khẳng định, công tác khuyến công đã xác lập những bước đi quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất là tại khu vực nông thôn; góp phần giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội; khai thác các điều kiện thuận lợi của từng vùng, từng địa phương cho phát triển lực lượng sản xuất; phát huy cao nội lực của các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn trên cơ sở có sự đồng hành, hỗ trợ của Nhà nước; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khuyến công ở trung ương và địa phương đã từng bước được hoàn thiện, bám sát thực tiễn, đưa công tác khuyến công đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường ở khu vực nông thôn, các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn.
Tổ chức hệ thống khuyến công toàn quốc đã không ngừng được củng cố, trưởng thành, kết nối thống nhất từ Trung ương đến địa phương và hoạt động ngày càng hiệu quả. Đến nay, ngoài Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp 1 trực thuộc Cục Công Thương địa phương, 63/63 Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trên cả nước có đơn vị sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ về khuyến công với tổng số trên 1.300 cán bộ, viên chức. Ngoài ra còn có các tổ chức dịch vụ khuyến công khác, như: Viện, Trường, Hiệp hội... tham gia và thực hiện các nội dung hoạt động khuyến công.
Chương trình khuyến công hàng năm với nguồn ngân sách hỗ trợ bình quân hơn 200 tỷ đồng (bao gồm cả kinh phí trung ương và địa phương) đã động viên và huy động được các nguồn lực tham gia hoặc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện phân công lại lao động xã hội và xây dựng nông thôn mới; Khuyến khích, hỗ trợ sản xuất sạch hơn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên; giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khoẻ con người; Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển bền vững, thực hiện có hiệu quả lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động khuyến công quốc gia, nhằm phát hiện và tôn vinh những sản phẩm công nghiệp nông thôn có chất lượng, có giá trị sử dụng cao, có tiềm năng phát triển sản xuất, mở rộng thị trường đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng để có kế hoạch hỗ trợ phát triển sản xuất và xúc tiến thương mại. Hiện nay, Cục đang chuẩn bị các công việc liên quan để tổ chức bình chọn, tôn vinh sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia năm 2023.
Công tác theo dõi, quản lý phát triển cụm công nghiệp được Bộ giao từ năm 2008, ngay từ thời gian đầu Cục đã tập trung thu thập thông tin, số liệu liên quan đến cụm công nghiệp; phối hợp với các địa phương tiến hành khảo sát tình hình thực tế để có cơ sở xây dựng cơ chế, chính sách phục vụ cho công tác quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp.
Bước đầu là tập trung xây dựng Thông tư số 13/2008/TT-BCT ngày 05/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Công Thương hướng dẫn thực hiện hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các vùng Tây Nguyên, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ; xây dựng kế hoạch phát triển cụm có quy mô nhỏ đáp ứng yêu cầu chung của quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ và quy hoạch phát triển công nghiệp địa phương; phối hợp với các Sở Công Thương xây dựng báo cáo đánh giá tình hình phát triển các cụm để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.v.v..
Tiếp theo, Cục đã tham mưu Bộ Công Thương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 về Quy chế quản lý cụm công nghiệp và ban hành Thông tư số 39/2009/TT-BCT ngày 28/12/2009 quy định thực hiện một số nội dung của quy chế quản lý cụm công nghiệp. Từ đây, công tác quản lý cụm công nghiệp trên phạm vi cả nước đã có cơ sở thực hiện và đi vào nề nếp, quy củ, đạt hiệu quả cao hơn.
Để khắc phục các tồn tại, hạn chế cũng như nâng cao hiệu lực pháp lý của Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg, Cục tiếp tục tham mưu Bộ Công Thương xây dựng, trình Chính phủ ban hành các Nghị định về quản lý, phát triển cụm công nghiệp (Nghị định số 68/2017/NĐ-CP, Nghị định số 66/2020/NĐ-CP) và ban hành các Thông tư hướng dẫn của Bộ Công Thương (Thông tư số 15/2017/TT-BCT, số 28/2020/TT-BCT).
Hiện nay, căn cứ Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và của Lãnh đạo Bộ, Cục Công Thương địa phương đang xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị định của Chính phủ về quản lý, phát triển cụm công nghiệp (thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP), báo cáo Lãnh đạo Bộ xem xét, trình Chính phủ theo kế hoạch, tiến độ được giao.
Bên cạnh đó, phát triển tiểu thủ công nghiệp và doanh nghiệp có liên quan đến công tác theo dõi doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế tập thể, hợp tác xã, làng nghề tiểu thủ công nghiệp..., đây là một nhiệm vụ phức tạp, liên quan đến nhiều Bộ, ban, ngành khác nhau. Do vậy, để thực hiện triển khai hài hòa các nhiệm vụ, Cục đã tập trung phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để tìm những biện pháp, hướng đi phù hợp, giúp thay đổi bộ mặt nông thôn, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và từng bước xây dựng cơ chế, chính sách.
Giúp Ban Chỉ đạo của Bộ triển khai các nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhiệm vụ này Cục được giao từ năm 2010, mặc dù các tiêu chí (điện nông thôn và cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn) không thuộc lĩnh vực quản lý của Cục nhưng trước nhiệm vụ được giao, Cục đã có nhiều cố gắng, cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ làm đầu mối giúp Ban Chỉ đạo của Bộ về các nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới
Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp và khó lường, đặt ra những yêu cầu mới, nặng nề hơn cho ngành Công Thương nói chung và Cục Công Thương địa phương nói riêng. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, Cục Công Thương địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Cục về: Khuyến công, cụm công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa …; trước mắt là việc xây dựng văn bản hướng dẫn Nghị định về quản lý, phát triển cụm công nghiệp, Nghị định quy định chi tiết về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ và tiến hành việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 45/2012/NĐ-CP ngày 21/5/2012 của Chính phủ về khuyến công và đề xuất xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 45/2012/NĐ-CP.
Hai là, tập trung thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành công thương đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, phát triển công nghiệp, thương mại. Đây là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của Cục Công Thương địa phương. Tiếp tục phối hợp với các Sở Công Thương chuẩn bị tổ chức chuỗi sự kiện “Hội nghị ngành Công Thương, Hội nghị công tác Khuyến công, Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn tiêu biểu, Bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu” tại 3 miền Bắc, Trung, Nam nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của ngành Công Thương, huy động nhiều nguồn lực đầu tư phát triển các công trình, dự án ngành công nghiệp có tính kết nối, lan tỏa phát triển giữa các ngành, lĩnh vực, vùng miền.
Ba là, phát huy những kết quả đạt được của hoạt động khuyến công trong những năm qua, tập trung nghiên cứu hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm và huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn trên cơ sở những yêu cầu, giải pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: “Đổi mới công tác khuyến công theo hướng kết hợp giữa nhà nước với doanh nghiệp; theo chuỗi ngành hàng, chuyển đổi số”.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác bình chọn, phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu; qua đó ghi nhận, khuyến khích các cơ sở công nghiệp nông thôn phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, phối hợp UBND cấp tỉnh chỉ đạo quản lý chặt chẽ, đúng quy định về quản lý, phát triển cụm cộng nghiệp; có ý kiến đối với Phương án phát triển cụm cộng nghiệp và Quy hoạch tỉnh của các địa phương đảm bảo chất lượng, đúng quy định; tổ chức kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc đột xuất việc thực hiện phương án phát triển cụm công nghiệp, chính sách, pháp luật, hiệu quả quản lý, phát triển cụm công nghiệp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; hàng năm xây dựng kế hoạch hoạt động phát triển cụm công nghiệp, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, phát triển cụm công nghiệp cho Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổ chức có liên quan.
Năm là, tập trung xây dựng đề án giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 làm cơ sở, cho việc đề xuất ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; thực hiện Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung xây dựng, phát triển mạng lưới tư vấn viên ngành Công Thương hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số số 45/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, Tiếp tục tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo sự phân công của Ban Chỉ đạo Trung ương các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện tiêu chí số 4 và số 7 tại các địa phương để hướng dẫn, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, tìm biện pháp giải quyết trong triển khai thực hiện. Theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện tiêu chí số 4 về điện, tiêu chí số 7 về cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, một số chỉ tiêu thuộc tiêu chí số 6 về kinh tế và tham gia triển khai thực hiện tiêu chí có liên quan khác trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Tiếp tục phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ biên soạn tài liệu và tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới.
Bảy là, đẩy mạnh công tác truyền thông cho các hoạt động: Khuyến công, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cụm công nghiệp và các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ; không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ, phối hợp công tác chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị hữu quan trong và ngoài Bộ; đặc biệt là các địa phương nhằm hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
20 năm qua, Cục Công Thương địa phương đã đồng hành với các đơn vị trong và ngoài ngành, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố cùng sự thống nhất, đoàn kết, nỗ lực cao của tập thể công chức, viên chức, người lao động, Cục Công Thương địa phương đã đạt được những thành công nhất định, luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Cùng với thời gian, Cục Công Thương địa phương ngày càng tạo dựng được niềm tin, khẳng định vai trò, vị trí và sự tin tưởng của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ về tất cả các nhiệm vụ Cục Công Thương địa phương được giao góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của Ngành Công Thương.