Theo một nghiên cứu mới đây, hiện hàng Việt Nam đang chiếm vị trí thứ hai sau hàng Thái Lan tại thị trường Campuchia. Nguyên nhân chính khiến hàng Việt Nam được ưa chuộng tại Campuchia chủ yếu là do có giá bán rẻ hơn so với hàng Thái Lan và chất lượng cũng ở mức chấp nhận được. Tiếp nữa là do Việt Nam và Campuchia rất gần nhau về mặt địa lý nên việc đặt hàng, giao nhận hàng hóa được tiến hành tương đối thuận lợi.
Xuất siêu sang thị trường Campuchia
Campuchia có 14,7 triệu dân, thu nhập bình quân 600 USD/người/năm. Hầu hết các loại hàng hóa đều không bị hạn chế về số lượng nhập khẩu vào nước này. Đây được đánh giá là thị trường khá tiềm năng của hàng hóa Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia chủ yếu là mì ăn liền, sản phẩm nhựa, thuốc lá, bánh kẹo, bắp giống, hàng gia dụng, rau quả… và nhập khẩu từ Campuchia các loại nguyên liệu phục vụ ngành may, phụ tùng ô tô, gỗ, cao su…
Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Campuchia tăng trưởng khoảng 40%/năm, đến năm 2008 đạt 1,7 tỷ USD. Dự báo đến năm 2010 con số đó có thể đạt 2 tỷ USD; trong đó, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường này tăng gấp nhiều lần so với kim ngạch nhập khẩu.
Trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia có kim ngạch cao và chiếm lĩnh được thị phần lớn là sắt thép xây dựng, máy móc phục vụ nông nghiệp, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hàng công nghiệp tiêu dùng, hàng nông sản chế biến, sản phẩm sữa, hải sản và xăng dầu tái xuất.
Theo Bộ Thương mại Campuchia, trong năm 2008, giá trị hàng Việt Nam được tiêu thụ tại thị trường Campuchia vượt qua cả hàng Trung Quốc và Thái Lan với 988 triệu USD, trở thành quốc gia chi phối mạnh mẽ đời sống tiêu dùng của nước này. Các chuyên gia kinh tế dự báo, với lợi thế địa lý, Việt Nam có thể duy trì vị trí dẫn đầu ở thị trường Campuchia nếu tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến mẫu mã sản phẩm.
Sở dĩ hàng Việt Nam ngày càng bén rễ sâu tại thị trường Campuchia là do những năm gần đây, mối quan hệ giữa Chính phủ 2 nước ngày càng được thắt chặt. Đây chính là điều kiện thuận lợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hợp tác đầu tư sang Campuchia. Hiện tại có trên 100.000 Việt Kiều đang sinh sống tại Campuchia. Đây là cầu nối rất tốt để các doanh nghiệp Việt Nam bắt nhịp kinh doanh. Hoạt động thương mại Campuchia chủ yếu là xuất khẩu nông sản, nhập khẩu hàng tiêu dùng. Ông Châu Văn Chi, Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Campuchia, cho biết: "Có thể xem thị trường Campuchia là trung tâm giao lưu hàng hóa của toàn khu vực. Hàng hóa từ Việt Nam, Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan… trước khi thâm nhập thị trường nước khác nào đó phần lớn đều đã đi qua đầu mối giao lưu này. Doanh nghiệp các nước Đông Nam Á đều xem Campuchia là thị trường "thử nghiệm" hàng hóa của họ trước khi đưa hàng đến với thị trường của một nước khác. Thí dụ khi hàng Việt Nam đã được thị trường Campuchia chấp nhận thì các doanh nghiệp sẽ dễ dàng đưa nhóm hàng hóa đó thâm nhập thị trường của nước thứ 3. Tuy nhiên, tại thị trường Campuchia, hàng Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh nhiều hơn với hàng hóa Trung Quốc, Thái Lan…".
Hàng Việt Nam tại thị trường Campuchia được người tiêu dùng đánh giá là có giá rẻ, chất lượng ở mức chấp nhận được, trong đó một số sản phẩm được công nhận thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao.
Nhiều tồn tại
Theo nhiều chuyên gia về thị trường, do vị trí địa lý gần Việt Nam nên Campuchia hiện nay được xem là nơi thích hợp nhất để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường và người dân Campuchia rất chịu chi tiêu. Tuy nhiên, việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Campuchia hiện nay vẫn theo cách mạnh ai nấy làm.
Nhược điểm chính của hàng Việt Nam vẫn là chất lượng không ổn định, tốt ở những lô đầu nhưng giảm dần chất lượng ở các lô sau.
Đến nay, nhiều sản phẩm của Việt Nam ở thị trường này vẫn thông tin về nhà sản xuất, định giá đơn vị sản phẩm chưa phù hợp với tập quán chi tiêu của người dân Campuchia. Sản phẩm cũng chưa thân thiện với người tiêu dùng Campuchia do hầu hết đều không có in tiếng Khmer trên bao bì hay trong các tài liệu hướng dẫn, nhất là đối với các sản phẩm rất cần có sự hướng dẫn sử dụng như phân bón, nông dược…
Bên cạnh đó, hoạt động quảng bá thương hiệu của sản phẩm nói chung còn rời rạc, chưa tạo được ấn tượng cho người tiêu dùng và chưa tạo được vị thế của hàng Việt Nam trong giới kinh doanh ở Campuchia.
Mặc dù ngày càng nhiều người Campuchia dùng hàng Việt nhưng độ phủ của hàng Việt so với hàng Thái vẫn còn khoảng cách do chủng loại hàng ít. Số lượng hàng hóa tiêu thụ đa dạng nhưng mức tiêu thụ cho từng sản phẩm còn tương đối nhỏ. Đến nay, chưa có nghiên cứu cụ thể nào về phương thức phân phối hàng hóa vào Campuchia một cách có hiệu quả nhất. Chợ truyền thống vẫn đóng vai trò chủ đạo trong kênh phân phối bán lẻ và bán buôn ở đây. Hàng Việt phần lớn có nhiều ở chợ, còn vào các siêu thị hàng Thái Lan vẫn áp đảo. Đặc biệt, hoạt động xúc tiến thương mại của các nước như Thái Lan được tiến hành rất bài bản và vẫn được sự hỗ trợ của Chính phủ.
Hàng hóa của Việt Nam cũng không được hỗ trợ bán hàng như của Thái Lan. Các công ty Thái Lan đều thường xuyên cử nhân viên tới thăm các cửa hàng trưng bày sản phẩm. Thậm chí, các cửa hàng này hàng tháng còn được nhận một khoản tiền nhất định hỗ trợ cho việc trưng bày, giới thiệu hàng hóa.
Riêng đối với một số sản phẩm như phân bón, giống cây trồng, trong quá trình sử dụng nếu người dân gặp phải khó khăn, công ty Thái Lan cử người có thể sang để giúp người tiêu dùng phối hợp tháo gỡ những vướng mắc.
Hơn nữa, thời gian qua Trung Quốc vẫn chưa thực sự coi Campuchia là thị trường tiềm năng, nay các công ty Trung Quốc bắt đầu có kế hoạch chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, hàng hóa của một số nước như Malaysia, Philippines, Indonesia… cũng đã bắt đầu có mặt trên thị trường này và cộng đồng người Hoa sống ở Campuchia lại có mối quan hệ khá tốt với cộng đồng người Hoa tại các nước trên.
Với một số hàng hóa, người bán hàng còn phàn nàn không thể liên hệ với nhà sản xuất Việt Nam do trên sản phẩm không có địa chỉ. Điều này khiến họ lo ngại hàng hóa của Việt Nam có thể bị làm giả ở trong nước rồi đưa sang Campuchia, hoặc bị làm giả ngay tại quốc gia này thì nhà sản xuất cũng rất khó khởi kiện. Băn khoăn trên của các nhà bán lẻ tới thời điểm này vẫn chưa nhận được sự giải thích từ các nhà sản xuất Việt Nam.
Về ngành hàng thực phẩm, các nhà sản xuất cũng chưa có những nghiên cứu sâu về thị hiếu và khẩu vị người tiêu dùng mà vẫn bán những sản phẩm mình đang có. Sản phẩm mì gói ăn liền là một ví dụ, lượng tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam tại đây là khá lớn, nhưng chủ yếu là do trọng lượng lớn hơn và giá rẻ hơn so với sản phẩm cùng loại của Thái Lan.