Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới

Bài báo Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới do Lê Đỗ Ngọc Dũng (Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc) thực hiện.

Tóm tắt:

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ từ 15 tuổi trở lên tham gia vào lực lượng lao động trong những năm gần đây chưa phục hồi so với giai đoạn trước đại dịch Covid-19, tỷ lệ lao động nữ được đào tạo đạt mức rất thấp, cải thiện chậm và còn khoảng cách khá xa so với nam giới. Nghiên cứu cũng chỉ ra các chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực nữ; bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng có nhiều hoạt động chăm lo đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phát động nhiều phong trào thi đua xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Quá trình nghiên cứu đã đề xuất được 5 giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới.

Từ khóa: phát triển nguồn nhân lực, kỷ nguyên mới, nhân lực nữ, cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

1. Đặt vấn đề

Một thời đại mới đang dần hình thành trên phạm vi toàn cầu với nhiều đặc điểm nổi bật trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội; đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức hệ trọng cho Việt Nam trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức chống chịu và thích ứng được với những biến động trên thế giới nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong phát triển đất nước [9]. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy “thời đại mới” và “kỷ nguyên mới” dường như chỉ là sự khác biệt về tên gọi; đều được dùng để chỉ một giai đoạn mới mẻ với những tiến bộ, đổi mới, hoặc thay đổi đáng kể trên các lĩnh vực như công nghệ, xã hội, kinh tế hay chính trị, mang lại sự thay đổi lớn trong cách con người sống và làm việc. Kỷ nguyên mới được các nghiên cứu gần đây cho là có mang các đặc điểm của công nghệ số, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây (Cloud computing) và công nghệ chuỗi - khối (Blockchain)... [4]. Trong bối cảnh thời đại mới, Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương đã xác định chủ trương quyết tâm đưa Việt Nam bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, vai trò của nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao luôn đóng vai trò rất quan trọng. Trong kỷ nguyên mới với những yêu cầu cao hơn từ cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lược cao lại càng quan trọng.

Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, bắt buộc phải phát triển nguồn nhân lực nữ, “không có phụ nữ, riêng nam giới không thể làm nổi công cuộc cách mạng” [5, tập 7, tr.74). Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ các yêu cầu, nhiệm vụ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi” [3]. Chính sự thay đổi mạnh mẽ của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất mới đòi hỏi những biến đổi tương ứng không thể chậm trễ đối với lực lượng lao động, trong đó có lao động nữ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với chức năng đại diện cho các tầng lớp phụ nữ trong cả nước cũng đã xác định vai trò của các cấp Hội trong phát triển nguồn nhân lực nữ, thông qua “Phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, tạo ra động lực mới nhằm phát huy cao nhất tinh thần dân tộc, giá trị nhân văn, truyền thống phụ nữ, khát vọng vươn lên, đổi mới sáng tạo và khả năng đóng góp của phụ nữ trong gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [6]. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới” với 4 nhóm tiêu chí: (1) Có Tri thức; (2) Có Đạo đức; (3) Có Sức khỏe; (4) Có Trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và đất nước đã được phát động mạnh mẽ và triển khai trên khắp cả nước. Trong hầu hết các vấn đề của nguồn nhân lực, vấn đề của nguồn nhân lực nữ được đánh giá là trầm trọng hơn và nhiều vấn đề chậm cải thiện, còn khoảng cách lớn so với nguồn nhân lực nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực nữ, trong đó có các yếu tố, yêu cầu của kỷ nguyên mới là rất cần thiết để tìm kiếm các giải pháp, hàm ý chính sách hiệu quả cho Việt Nam trong phát triển nguồn nhân lực nữ thời gian tới.

Bài viết sử dụng các dữ liệu thứ cấp của Tổng cục Thống kê và các báo cáo khoa học để tổng quan thực trạng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam, những vấn đề chính sách, pháp luật có liên quan và yêu cầu của kỷ nguyên mới đặt ra cho lực lượng lao động (LLLĐ) nói chung, LLLĐ nữ nói riêng, để từ đó đưa ra các giải pháp sao cho phù hợp với phát triển nguồn nhân lực nữ.

2. Kết quả và thảo luận

2.1. Thực trạng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam

Việt Nam đã thực hiện rất thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trong gần 40 năm đổi mới. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 40,4% vào năm 1990 xuống chỉ còn 11,6% vào năm 2024; kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Trong năm 2024, các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khá, công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng trên 7% trong năm. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chậm lại đáng kể trong những năm gần đây. Báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2023 cho biết sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp và xây dựng và khu vực dịch vụ đã giảm từ 1,0 điểm phần trăm (năm 2020) xuống còn 0,6 điểm phần trăm [16]. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Sơn chỉ ra rằng chuyển dịch việc làm vẫn chủ yếu là từ lĩnh vực nông nghiệp năng suất thấp sang các lĩnh vực dịch vụ năng suất thấp, ít chuyển sang các lĩnh vực dịch vụ và chế tạo chế biến có năng suất cao hơn [7]. (Bảng 1)

Bảng 1. Tình hình tham gia lực lượng lao động theo giới

                                                                                               (triệu người, %)

Tiêu chí

2010

2015

2019

2023

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Tổng số dân số từ 15 tuổi +

31,642

33,600

33,895

35,848

35,862

36,765

37,010

39,086

Tổng số dân số tham gia LLLĐ

25,946

24,528

28,133

26,133

29,371

26,397

27,869

24,507

Tỷ lệ nam (nữ) tham gia LLLĐ

82,0

73,0

83,0

72,9

81,9

71,8

75,3

62,7

Tỷ trọng trong tổng số LLLĐ

51,4

48,6

51,8

48,2

52,6

47,4

53,2

46,8

Nguồn: Tổng cục Thống kê & Báo cáo điều tra LĐVL các năm 2011, 2016, 2020 và 2024

Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động (LLLĐ) cao nhất thế giới, các năm đều đạt trên 70%, trừ giai đoạn 2020-2024 do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Mức trung bình của toàn thế giới về tỷ lệ nữ tham gia LLLĐ năm 2019 chỉ là 47,2%. Điều này khẳng định phụ nữ Việt Nam có vai trò rất quan trọng, không thua kém gì nam giới trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nam và nữ trong tham gia LLLĐ và khoảng cách này ngày càng gia tăng trong những năm trong và sau đại dịch.

Về chất lượng cũng như cung thị trường lao động còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng cho cầu thị trường lao động thay đổi nhanh trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (có chứng chỉ từ sơ cấp trở lên) tính đến năm 2023 chỉ đạt hơn 28% LLLĐ và tăng chậm trong nhiều năm qua. Trong đó, khoảng cách giữa nam và nữ về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng gia tăng, dẫn đến những thách thức không nhỏ đối với phụ nữ trong cạnh tranh, tìm kiếm việc làm tốt, nhất là ở độ tuổi thanh niên (18-24 tuổi). Chất lượng giáo dục cũng chưa cải thiện nhiều, với tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng nhanh nhưng cũng chỉ chiếm hơn 11% LLLĐ. Tỷ lệ lao động có trình độ sơ cấp nghề cũng tăng nhanh và đứng vị trí thứ hai (Hình 1).

Hình 1: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giai đoạn 2010-2022

 Tuy nhiên, xét theo khía cạnh bình đẳng giới ở cấp học cao đẳng, đại học, Việt Nam đang thực hiện rất tốt, hầu như không có sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ nhập học và tốt nghiệp ra trường. Phụ nữ dân tộc thiểu số cũng gặp thêm các bất lợi trong tham gia thị trường lao động. Về trình độ nghề nghiệp, chỉ có 2,8% người DTTS được đào tạo ở trình độ sơ cấp nghề và 2,7% ở trung cấp nghề. Trong đó, nữ giới tham gia ở các cấp học này rất thấp, chỉ chiếm 13.6% ở sơ cấp nghề và 42.5% ở trung cấp nghề. Ở cấp học cao hơn (cao đẳng và đại học), tỷ lệ người DTTS được đào tạo ở trình độ cao đẳng và đại học là tương đối thấp, với 2% và 3.8% lần lượt cho từng trình độ. Tuy nhiên, có sự cân bằng tỷ lệ nam - nữ DTTS được đào tạo ở các cấp học này. Lao động DTTS tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, với rất ít lao động có chuyên môn kỹ thuật nên có thể khẳng định phần lớn lao động DTTS làm việc ở khu vực phi chính thức, trong đó có lao động nữ. Về tỷ lệ phụ nữ tham gia làm chủ doanh nghiệp, số liệu thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết tính đến năm 2022, trong tổng số 883.000 doanh nghiệp đang hoạt động, toàn quốc có 263.444 doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chiếm 29,8%. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đã có cải thiện dần nhưng còn chậm và các nữ chủ doanh nghiệp vẫn đang gặp nhiều rào cản, khó khăn trong lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả, bao gồm các rào cản từ môi trường kinh doanh, áp lực cân bằng giữa công việc và chăm sóc gia đình, định kiến xã hội về vai trò của phụ nữ, về khả năng kinh doanh của phụ nữ và cả những phân biệt đối xử trong kinh doanh [4].

2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới

Chủ trương phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực nữ luôn là một trong những nội dung quan trọng trong các nghị quyết của Đảng nhiều nhiệm kỳ gần đây. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) chỉ rõ: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [1].Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực” [2]. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII (năm 2021), Đảng chỉ rõ: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” [3].  

Bên cạnh chính sách của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách cụ thể để phát triển nguồn nhân lực, bao gồm cả nhân lực chất lượng cao. Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã đưa ra nhiều chỉ tiêu và giải pháp quan trọng nhằm phát triển cả trí lực, kỹ năng làm việc và thể lực của lao động Việt Nam. Trong giai đoạn 2021-2030, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Quốc gia thu hút và trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 [13] nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao cho khu vực Nhà nước và huy động nguồn lực cho đào tạo nhân lực chất lượng cao. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 841/QĐ-g ngày 14/7/2023 về lộ trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, trong đó xác định nhiều mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về phát triển nguồn nhân lực, bao gồm kiểm soát tỷ lệ lao động (cả nam và nữ) thất nghiệp, không được đào tạo, tỷ lệ làm việc ở khu vực phi chính thức, tỷ lệ cán bộ khoa học & công nghệ, tỷ lệ cải thiện năng suất lao động [12].

Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách đặc thù cho từng nhóm phụ nữ. Liên quan đến nữ công nhân, Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008 của BCH TW Đảng (khóa X) về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đã đề ra nhiệm vụ: Đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới; tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân. Bộ Luật Lao động, Nghị định số 85/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định chi tiết một số chính sách đối với lao động nữ. Ngày 07/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2018/NĐ-CP quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm. Liên quan đến nữ nông dân, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của BCH TW Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đề ra một trong những nhiệm vụ và giải pháp là thực hiện bình đẳng giới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, năng lực và vị thế của phụ nữ ở nông thôn. Liên quan đến nữ chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đến năm 2017, Quốc hội đã ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có nguyên tắc ưu tiên hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ, bên cạnh các quy định về hỗ trợ tư vấn; hỗ trợ đào tạo trực tiếp về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế biến cho các SME do phụ nữ làm chủ. Liên quan đến nữ thanh niên, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/7/2008 của BCH TW Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là tạo cơ hội cho thanh niên được thụ hưởng chính sách giáo dục, chú trọng đối với nữ thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nông thôn, thanh niên khuyết tật. Liên quan đến nữ dân tộc thiểu số, Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ đề cập đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực dân tộc thiểu số gắn với việc làm, nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-g phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó có dành riêng Dự án 8 để “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”.

2.3. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới

Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được xác định bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ XIV là cách tiếp cận đúng đắn và cần thiết; xuất phát từ thực trạng phát triển đất nước, cũng như những cơ hội, thách thức ngày càng mạnh mẽ từ bối cảnh quốc tế. Sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, ngày càng khẳng định được vị thế, uy tín trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù vậy, những vấn đề nội tại đã được chỉ ra trong nhiều báo cáo của Đảng, Nhà nước như: (1) điểm nghẽn từ hệ thống thể chế, pháp luật; (2) sự cải thiện năng suất các yếu tố tổng hợp; (3) sự lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực; (4) tỷ lệ giải ngân đầu tư công thấp; (5) các vấn đề ô nhiễm, ùn tắc giao thông… đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị mạnh mẽ, phải tạo ra thay đổi thực sự tích cực, đột phá trong thời gian tới để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, giúp Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước XHCN phát triển, có thu nhập cao. Kỷ nguyên mới của dân tộc cũng đang đối mặt với nhiều thách thức có tính toàn cầu, nhất là về biến đổi khí hậu, ô nhiễm, rủi ro thiên tai cũng như sự gia tăng các xung đột, mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc và các vấn đề xã hội như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng dẫn đến những cạnh tranh gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh doanh và thị trường lao động.

2.4. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới

Để thực hiện được các yêu cầu trên đối với nguồn nhân lực nữ cần quan tâm thực hiện các giải pháp ưu tiên sau đây:

Giải pháp 1: Ban hành các chiến lược, kế hoạch chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

Xác định rõ các mục tiêu, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, bao gồm cả nguồn nhân lực nữ trong từng giai đoạn và có các chính sách để đa số LLLĐ đạt được các năng lực nghề nghiệp và có thể tham gia ngày càng nhiều vào thị trường lao động toàn cầu cũng như cải thiện tình trạng có việc làm tốt ở trong nước. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia cần phân tích sâu thực trạng cơ cấu lao động, năng lực nghề nghiệp theo từng lĩnh vực kinh tế-xã hội; xu hướng dịch chuyển ngành/nghề trong kỷ nguyên mới để có kế hoạch hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp, hướng tới những cải thiện tỷ lệ lao động có việc làm tốt, làm việc ở những ngành có giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Giải pháp 2: Đẩy mạnh quy mô, nâng cao hiệu quả giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nghề cho phụ nữ.

Bên cạnh việc tăng cường các khóa đào tạo nâng cao nhận thức, phổ cập các kỹ năng mềm, ngoại ngữ, giao tiếp và năng lực số để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới; các khóa đào tạo chuyên môn nghề cần gắn chặt với nhu cầu của người lao động, kết nối chặt chẽ với cầu lao động từ doanh nghiệp. Bên cạnh việc hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề đã được khẳng định về chất lượng và tỷ lệ cao người học có việc làm phù hợp, Nhà nước cần khuyến khích mạnh mẽ hơn vai trò tham gia đào tạo của doanh nghiệp gắn với tuyển dụng học viên sau đào tạo.

Giải pháp 3: Cải thiện hệ thống chính sách, pháp luật, môi trường kinh doanh cũng như các bộ phận khác của hệ sinh thái để thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh doanh và chuyển đổi chính thức các hộ kinh doanh cá thể.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ cao lao động nữ làm việc trong khu vực phi chính thức, thiếu việc làm, việc làm thu nhập thấp là vì số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ. Việc cải thiện số lượng, quy mô doanh nghiệp sẽ giúp hấp thụ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực nữ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng.

Giải pháp 4: Triển khai chính sách hỗ trợ các nhóm lao động nữ làm việc khu vực phi chính thức, phụ nữ yếu thế và phụ nữ ở khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số.

Việc hỗ trợ nâng cao năng lực nghề nghiệp, năng lực số cho các nhóm phụ nữ trên sẽ giúp họ tiếp cận những dịch vụ và cơ hội tốt hơn về giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống; từ đó giảm thiểu khoảng cách, phân hóa giữa các tầng lớp trong xã hội.

Giải pháp 5: Thực hiện các hoạt động nhằm thay đổi các khuôn mẫu, định kiến và phân biệt đối xử về giới trong xã hội

Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ, xóa bỏ các định kiến giới và tạo ra một môi trường hỗ trợ được xem là rất quan trọng để phụ nữ có thể phát triển toàn diện và đóng góp vào sự phát triển của đất nước, để phụ nữ thực sự được giải phóng áp lực công việc gia đình, được trao cơ hội bình đẳng, từ đó phát huy hết tiềm năng, thế mạnh đóng góp vào sự phát triển giàu mạnh của đất nước và thụ hưởng các lợi ích công cộng, chính sách an sinh xã hội ngày càng tốt hơn.

3. Kết luận

Phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới là một yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển bền vững và toàn diện của một quốc gia. Điều này đòi hỏi sự chung tay của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội để tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tối đa tiềm năng, đóng góp vào mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị.

Trong kỷ nguyên mới, với sự phát triển của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế, việc phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới không chỉ là một vấn đề công bằng xã hội, mà còn là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, quan tâm chăm lo đầu tư vào phụ nữ là đầu tư vào tương lai. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Nguyễn Ngọc Hà (2024), “Khái niệm, nội hàm kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn".

Hội LHPN Việt Nam (2020), Chiến lược Phát triển Hội LHPN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035.

ILO (2021), “Giới và thị trường lao động ở Việt Nam”, Báo cáo phân tích dựa trên số liệu Điều tra Lao động - Việc làm, Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế.

 Nguyễn Hồng Sơn (2024), “Nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”.

Hồ Bá Thâm (2003), Khoa học con người và phát triển nguồn nhân lực, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

Thủ tướng Chính phủ (2010), Chiến lược quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020.

Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QĐ-g ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.

Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-g ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020;

Thủ tướng Chính phủ (2023), Quyết định số 841/QĐ-g ngày 14/7/2023 về việc ban hành Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.

Văn phòng Chính phủ Thủ tướng Chính phủ (2023), Quyết định số 899/QĐ-g ngày 31/7/2023 về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Tô Lâm (2024), “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập tại https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/ V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-viet-nam

Tổng cục Thống kê (2022), Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội.

Tổng cục Thống kê (2023), Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động việc làm Quý IV và năm 2023. Truy cập tại https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/ 2023/12/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-dan-so-lao-dong-viec-lam-quy-iv va-nam-2023/

Solutions for the development of female human resources in the new era

Le Do Ngoc Dung

Northern Water Resources Planning and Investigation Federation

Abstract:

The study reveals that the labor force participation rate of women aged 15 and above in recent years has not returned to pre-COVID-19 levels. Moreover, the proportion of trained female workers remains low, with slow improvement, and continues to lag significantly behind that of men. The findings highlight the growing attention of the Communist Party of Vietnam and the Government of Vietnam toward the development of female human resources, alongside the active role of the Vietnam Women’s Union in protecting women’s rights and interests, as well as promoting movements to build the image of Vietnamese women in the new era. Based on this analysis, the study proposes five solutions aimed at enhancing the development of female human resources to meet the demands of sustainable growth and modernization.

Keywords: human resource development, new era, female human resources, the Fourth Industrial Revolution (Industry 4.0).

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 22 năm 2025]

Tạp chí Công Thương