Tóm tắt:
Luật Kế toán được ban hành ngày 20/11/2015 có 3 điểm sửa đổi so với Luật Kế toán năm 2013. Một trong đó là nguyên tắc hạch toán giá trị tài sản và nợ. Tại điều 6 Luật năm 2015 quy định, Giá trị tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, đối với một số loại tài sản hoặc nợ phải trả mà giá trị biến động thường xuyên theo giá thị trường và giá trị của chúng có thể xác định lại một cách đáng tin cậy thì được ghi nhận theo giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ lập báo cáo tài chính.
Từ khóa: Luật Kế toán 2015, kế toán theo giá trị hợp lý, kế toán theo giá trị gốc, lợi nhuận, doanh nghiệp, tài sản và nợ phải trả…
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Kế toán năm 2003 là văn bản pháp luật cao nhất về kế toán, được chuẩn hóa nhiều nguyên tắc, nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán và hoạt động nghề nghiệp kế toán. Tuy nhiên, tính đến thời điểm và bối cảnh hội nhập hiện nay thì Luật Kế toán và công tác kế toán ở Việt Nam cũng còn có những khó khăn, hạn chế. Cụ thể Luật Kế toán 2003 quy định hạch toán theo giá gốc, điều này không phản ánh được tình hình biến động tài sản và nợ phải trả tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Đối với một số lĩnh vực như tín dụng, chứng khoán… nếu phản ánh theo giá gốc sẽ không thấy được thực chất dòng chảy vốn, tài sản trong kinh doanh. Điều này chưa phù hợp với thông lệ phổ biến trên thế giới và các chuẩn mực kế toán quốc tế. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế và thông lệ phổ biến trên toàn thế giới, việc hạch toán được thực hiện theo giá trị hợp lý (giá thị trường tại thời điểm đánh giá). “Giá trị hợp lý là giá mà có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc phải trả để thanh toán một khoản nợ phải trả trong giao dịch thông thường giữa các bên tham gia thị trường tại ngày đo lường” (theo Chuẩn mực quốc tế số 39 “Công cụ tài chính: Ghi nhận và đo lường”).
Trong khi ở Việt Nam, cơ chế kinh tế thị trường đã thực hiện trong nhiều năm qua và đang trong tiến trình hội nhập, mở cửa kinh tế. Xuất phát từ thực tiễn trên, cơ quan chủ trì soạn thảo sửa đổi, bổ sung vào điều 7, Luật Kế toán năm 2013 về nguyên tắc hạch toán theo giá trị hợp lý cụ thể như sau:
- Các tài sản sau khi hạch toán theo giá gốc có thể được điều chỉnh lại theo giá trị hợp lý (giá trị thực tế); Đồng thời, có bổ sung phần giải thích từ ngữ “Giá trị hợp lý” để thống nhất cách hiểu và áp dụng Luật.
- Phân ra các nhóm tài sản để đánh giá theo giá trị hợp lý và giao cho Bộ Tài chính quy định cụ thể. Đối với các tài sản khác không nằm trong nhóm tài sản quy định trong Luật sẽ giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn khi hội đủ điều kiện (tức là khi có thể đánh giá lại theo giá thực tế).
Với việc sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở đo lường thích hợp khi ghi nhận ban đầu của tài sản và nợ phải trả, thông tin do kế toán cung cấp sẽ đảm bảo hai đặc tính chất lượng quan trọng: tính thích hợp và tính đáng tin cậy. Tính thích hợp được xác định là chất lượng của thông tin hay mức độ ảnh hưởng của thông tin đến quyết định kinh tế của người sử dụng. Tính thích hợp được đánh giá trên phương diện, thông tin thích hợp để hỗ trợ đối tượng sử dụng đánh giá hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán tương lai. Còn tính đáng tin cậy thể hiện, thông tin kế toán phải trình bày trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo đúng bản chất một cách khách quan, thận trọng và đầy đủ. Thông tin có thể thích hợp, nhưng có thể không đáng tin cậy do sự ghi nhận giá trị có thể dẫn đến việc hiểu thông tin sai lệch.
Như vậy, việc bổ sung quy định như trên sẽ giúp cung cấp thông tin trung thực về thực trạng tài chính của đơn vị tại thời điểm lập báo cáo tài chính, cũng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế và sự phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam.
II. THỰC TRẠNG
Theo Luật Kế toán 2003: “Giá trị của tài sản được tính theo giá gốc, bao gồm chi phí mua, bốc xếp, vận chuyển, lắp ráp, chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng”. Kế toán giá gốc dựa trên giá mua vào quá khứ để ghi nhận các giao dịch và lập Báo cáo tài chính. Sau thời điểm ghi nhận ban đầu tài sản và nợ phải trả vẫn được trình bày theo giá gốc. Nguyên tắc giá gốc được xem là nền tảng đo lường của kế toán trong nhiều năm qua và kế toán theo phương pháp giá gốc đã thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin phù hợp và đáng tin cậy cho người sử dụng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, kế toán theo giá gốc đã bộc lộ những hạn chế. Cụ thể như sau:
- Nhờ sự ra đời nhiều sản phẩm tài chính với độ phức tạp đến khó tin, nhiều doanh nghiệp khám phá ra phương thức phá vỡ kế toán chi phí gốc bằng cách sử dụng đạo hàm tài chính để nâng cao lợi nhuận và tăng giá trị bảng cân đối kế toán. Và tất yếu kéo theo đó là chuỗi các doanh nghiệp sụp đổ vào đầu năm 2000 như Enron, Worldcom… khi vận dụng cách thức này.
- Các hoạt động chuyển giá tại các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia tiếp tục tạo áp lực cho việc kế toán theo giá gốc. Do các công ty này luôn tìm mọi cách để đạt được lợi nhuận tối đa bằng cách tăng thu nhập bằng cách định giá thấp hơn giá thị trường các mặt hàng xuất khẩu từ nước chủ nhà và định giá cao hơn giá thị trường các mặt hàng nhập khẩu vào nước chủ nhà. Điều này đồng nghĩa với việc nâng giá (gốc) đầu vào, giảm giá bán đầu ra của các yếu tố sản xuất trong các giao dịch nội bộ giữa các thành viên của tập đoàn được đặt tại nhiều quốc gia có biểu thuế khác nhau sao cho có lợi nhất.
- Thông tin kế toán trên cơ sở giá gốc không phản ánh toàn diện tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Hạn chế này càng bộc lộ rõ đối với những tài sản nhạy cảm với biến động thị trường như các loại chứng khoán đầu tư, bất động sản, các tài sản tài chính khác.
- Quy định hiện hành cho phép doanh nghiệp được áp dụng hai cơ chế định giá khiến cho việc ghi nhận giá gốc theo biểu giá chính thức không đảm bảo yêu cầu khách quan, hệ quả là các nội dung về chi phí, doanh thu và lãi lỗ có thể thiếu độ tin cậy, ngoài ra, còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
- Chuẩn mực quốc tế đã sử dụng phương pháp tính giá hợp lý từ rất lâu trong khi Việt Nam đã tham gia ngày càng sâu rộng hợn vào các mối quan hệ kinh tế, thương mại với các quốc gia thế giới. IAS khác VAS trong hầu hết khoản mục của bảng cân đối kế toán như kế toán tiền, doanh nghiệp ghi độc lập với ngân hàng. Các khoản phải thu thương mại tách biệt với các khoản phải thu từ bán tài sản cố định (TSCĐ). Giá thành phẩm được tính theo phương pháp giá thành thông thường hơn là thực tế và nó không chấp nhận phương pháp LIFO. Các tài sản sinh vật và sản phẩm nông nghiệp thu hoạch từ các tài sản sinh vật được ghi nhận theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí điểm bán hàng ước tính. Các khoản chứng khoán thương mại ngắn hạn được ghi nhận theo giá trị hợp lý (giá thị trường) cuối mỗi kỳ, chênh lệch được ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện trên báo cáo kết quả. Các khoản chứng khoán sẵn sàng để bán cũng được điều chỉnh theo giá trị hợp lý cuối kỳ, nhưng nó được ghi tăng giảm vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán không ghi vào báo cáo lãi lỗ. Việc nhận cổ tức bằng cổ phiếu không ghi tăng thu nhập mà chỉ thuần túy ghi bút toán ghi nhớ làm tăng số lượng cổ phiếu lên, đồng thời giảm đơn giá vốn nhưng tổng giá vốn không đổi.
Thực tế ở Việt Nam, giá trị hợp lý đã được đề cập trong Chuẩn mực kế toán số 14 - Doanh thu và thu nhập khác: “Giá trị hợp lý là giá trị tài sản có thể trao đổi hoặc giá trị một khoản nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong trao đổi ngang giá”. Nó được sử dụng chủ yếu trong ghi nhận ban đầu về tài sản cố định, thu nhập khác và báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, xác định giá phí hợp nhất kinh doanh. Nhưng việc sử dụng giá trị hợp lý trong đo lường và kế toán vẫn còn hạn chế:
- Chưa có hướng dẫn chính thức và thống nhất về phương pháp xác định giá trị hợp lý trong kế toán.
- Giá trị hợp lý sử dụng chủ yếu cho ghi nhận ban đầu, chưa sử dụng để trình bày các khoản mục sau ghi nhận ban đầu, do đó chưa đạt được mục đích ghi nhận và trình bày các khoản mục theo những thay đổi của thị trường.
- Định nghĩa về giá trị hợp lý chưa rõ ràng, chưa đầy đủ.
- Các quy định về giá trị hợp lý và sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán nằm rải rác trong các chuẩn mực, mang tính chắp vá, thiếu tính hệ thống.
- Chưa xác định một cách rõ ràng và nhất quán về tính tất yếu của việc sử dụng Giá trị hợp lý là cơ sở định giá chủ yếu trong kế toán.
- Ghi nhận giá trị trong quá khứ, cung cấp thông tin quá khứ nên không thích hợp với các quyết định kinh tế trong môi trường kinh doanh hiện tại theo nền kinh tế thị trường.
Giá trị hợp lý ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc đánh giá và ghi nhận các yếu tố tài sản trên báo cáo tài chính trong những năm gần đây. Ở Việt Nam, việc ban hành các chuẩn mực và các hướng dẫn mới về kế toán tương đối phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế trong thời gian qua đã chứng minh quyết tâm hội nhập trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán với khu vực và thế giới. Mặt khác, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý về kế toán sẽ góp phần tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư vào Việt Nam và tăng cường tính minh bạch của thông tin trên báo cáo tài chính. Mong rằng các cơ quan quản lý Nhà nước, Vụ Chế độ kế toán - kiểm toán của Bộ Tài chính sớm ban hành những văn bản pháp lý quy định cụ thể hơn nữa về cách thức ghi nhận và hạch toán các khoản đầu tư tài chính, để thông tin của các doanh nghiệp ngày càng được phản ánh trung thực, khách quan phù hợp với thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế.
III. GIẢI PHÁP
Một là, thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, tăng cường các hội thảo nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận về việc phát triển và sử dụng Giá trị hợp lý trong định giá, từ cơ quan chức năng, người làm công tác kế toán, cho đến các đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC.
Hai là, điều chỉnh Luật Kế toán, chuẩn mực chung (VAS 1); ban hành hướng dẫn áp dụng Giá trị hợp lý, chuẩn hóa định nghĩa Giá trị hợp lý, giải thích các cấp độ, phương pháp xác định Giá trị hợp lý, quy định sự cân đối giữa các đặc tính chất lượng và các tiêu chuẩn đánh giá. Trên cơ sở Luật Kế toán và VAS 1, Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn áp dụng Giá trị hợp lý, chuẩn hóa định nghĩa Giá trị hợp lý, giải thích các cấp độ, phương pháp xác định Giá trị hợp lý, quy định sự cân đối giữa các đặc tính chất lượng và các tiêu chuẩn đánh giá khi có hạn chế thông tin giữa tính thích hợp và đáng tin cậy, cũng như nội dung và phạm vi các thông tin cần công bố trong thuyết minh báo cáo tài chính. Những hướng dẫn và giải thích này sẽ là cơ sở quan trọng để từng bước tạo lập hành lang pháp lý cho việc áp dụng Giá trị hợp lý trong kế toán, trước khi có một chuẩn mực chính thức về đo lường Giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam.
Ba là, bổ sung, cập nhật, nội dung các Chuẩn mực kế toán hiện hành có liên quan đến Giá trị hợp lý. Trong quá trình rà soát và điều chỉnh các Chuẩn mực kế toán đã ban hành, cần bổ sung các quy định về định giá theo hướng tiếp cận các Chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định bổ sung cần hướng đến việc tạo lập sự thống nhất, theo đó, cần quy định trong chuẩn mực các yêu cầu trình bày thông tin về Giá trị hợp lý. Trước mắt, Giá trị hợp lý nhất thiết phải được sử dụng trong ghi nhận ban đầu đối với: bất động sản đầu tư, công cụ tài chính, hợp nhất kinh doanh, liên kết, đầu tư vào công ty con, bởi lẽ, nếu phản ánh theo giá gốc sẽ không phản ánh được những thay đổi của thị trường, không phản ánh được lãi - lỗ chưa thực hiện vào đúng kỳ mà nó phát sinh.
Bốn là, ban hành chuẩn mực - Đo lường Giá trị hợp lý. Trong vòng 5 năm tới, Việt Nam cần nghiên cứu ban hành chuẩn mực đo lường Giá trị hợp lý. Chuẩn mực này được xây dựng theo hướng tiếp cận và phù hợp với IFRS 13.
Năm là, hoàn chỉnh hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng Giá trị hợp lý làm cơ sở đo lường chủ yếu. Bên cạnh việc bổ sung, cập nhật các Chuẩn mực kế toán đã ban hành phù hợp với Chuẩn mực kế toán quốc tế, trong những năm tiếp theo, Việt Nam cần tiếp tục ban hành các Chuẩn mực còn thiếu. Nội dung của các Chuẩn mực được xây dựng theo hướng cập nhật Chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt là phù hợp với điều kiện áp dụng Giá trị hợp lý trong định giá và IFRS 13. Kết quả là, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam không chỉ hòa hợp với Chuẩn mực kế toán quốc tế mà còn là hệ thống Chuẩn mực kế toán áp dụng Giá trị hợp lý làm cơ sở định giá chủ yếu, phù hợp với thông lệ và xu hướng quốc tế.
Sáu là, từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị trường hoạt động; đồng bộ và minh bạch hóa hành lang pháp lý về kinh doanh. Thị trường hàng hóa và thị trường tài chính Việt Nam phải được xây dựng ngày càng hoạt động để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm các dữ liệu tham chiếu trong đo lường Giá trị hợp lý. Giá trị hợp lý đang dần khẳng định những ưu thế của mình trong định giá, việc sử dụng Giá trị hợp lý được IASB, FASB ủng hộ và đang chuẩn bị những cơ sở quan trọng cho việc áp dụng rộng rãi tại các quốc gia. Quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán tạo ra sức ép đáng kể về việc nghiên cứu và sử dụng Giá trị hợp lý trong HTKT Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiến tới sử dụng Giá trị hợp lý như là một cơ sở định giá chủ yếu trong kế toán cần phải có lộ trình hợp lý. Với những giải pháp thích hợp được thực hiện đồng bộ, hiệu quả trong từng giai đoạn cụ thể, hy vọng trong một tương lai không xa, Giá trị hợp lý sẽ trở thành cơ sở định giá chủ yếu trong hợp tác quốc tế Việt Nam, đáp ứng hiệu quả yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ngô Thế Chi, Trương Thị Thủy, Giáo trình các chuẩn mực kế toán quốc tế, NXB Tài chính, 2010.
2. Bộ Tài chính (2006), Các chuẩn mực kế toán Việt Nam, NXB Tài chính;
3. Các sách báo, tạp chí có liên quan: Tạp chí Kế toán, Tạp chí Kiểm toán, Báo điện tử www.webketoan.com.vn;www.gso.gov.vn;http://www.khoahockiemtoan.vn,http://www.webketoan.vn,http://www.diendanketoan.com/.
4. Ernst & Young Việt Nam, Tài liệu Đào tạo cho Bộ Tài chính IAS 32, 36; IFRS 02, 07, tháng 01/2010.
5. FASB, Statement No.157 “Fair Value Measurement”, 2006.
Ngày nhận bài: 03 /01/2016
Ngày chấp nhận đăng bài: 22 /01/2016
Thông tin tác giả:
ThS. Đặng Thị Mây
Khoa Kế toán - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Accounting Law 2015: New point on fair value accounting
Master. Dang Thi May
Faculty of Accounting, University of Economics and Technology Industry
Abstract:
The Accounting Law of Vietnam issed on 20th, November, 2015 has three amendments compared with the Accounting Law 2013. One of these three amendments is new point on accounting code of recording value of assets and liabilities. According to this new poitn, the orginial value must be used to record value of assets and liabilities. After the initial record, if the value of assets and liabilities frequently changes at market prices and the value of these assets and liabilities can be recognized exactly, the the value of these assets and liabilities will be recorded at the end of reporting period.
Keywords: Accounting Law 2015, fair value accounting, original value accounting, profit, enterprise, assets, liabilities.