Đông Á trong xu thế phát triển toàn cầu, vấn đề đối với Việt Nam trong tái cơ cấu nền kinh tế

Năm 2011, khu vực Đông Á tuy có tốc độ tăng trưởng cao, song phải đối mặt với nhiều thách thức từ nhu cầu những nước phát triển tăng chậm, thiên tai và tâm lý lo ngại của nhà đầu tư trước những bất ổn



TS. Lê Thành Ý  (Mob 0913393222; Email thanhy41@yahoo.com.vn) phát biểu tại Hội thảo

Bài 1: Kinh tế Đông Á-Thái Bình Dương vấn đề nổi bật trong xu thế toàn cầu

Sau những dấu hiệu hối phục tăng trưởng toàn cầu; năm 2011 kinh tế thế giới có mức tăng dưới 2,3% và còn tiếp tục suy giảm với dự báo, tăng trưởng ở những nước có thu nhập cao chỉ từ 1,2% - 2,2% và khối nước đang phát triển từ 4,8 - 6% trong năm 2012 (WB 2011). WB cho rằng, tốc độ tăng trưởng cao của các nước Đông Á vẫn được duy trì; song đang có chiều hướng chậm lại bởi nhu cầu ngoài khu vực ngày càng sút giảm. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế thời gian qua chịu ảnh hưởng bất lợi từ những cú sốc nguồn cung, chuỗi cung ứng giảm sút do các đợt thiên tai, động đất, sóng thần, lũ lụt và đặc biệt là quá trình hồi phục tiêu dùng ở những nước chịu ảnh hưởng khủng hoảng diễn ra chậm hơn mong đợi. Gần đây, những bất ổn tài chính tại Mỹ và tình trạng nợ công đã làm trầm trọng thêm biến động tài chính và ảnh hưởng bất lợi đến tâm lý của các nhà đầu tư cũng như người tiêu dùng.

Tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, cho dù nhu cầu của các nước đang phát triển (yếu tố quyết định để tăng trưởng) vẫn ở mức độ cao; song do đòi hỏi chuẩn hóa chính sách tài khóa và tiền tệ, nhu cầu nội địa giảm dần cùng những rủi ro tiềm ẩn; GDP thực năm 2011 của các nước đang phát triển được dự báo chỉ tăng 8,2% và con số này giảm xuống còn 7,8% trong năm 2012 (WB 2011).

Tăng trưởng kinh tế khu vực có chiều hướng giảm được lý giải bởi nhu cầu tăng chậm cùng với tâm lý của nhà đầu tư bị xáo động trước tình hình bất ổn toàn cầu, thiên tai và việc chấm dứt các gói kích cầu. Phân tích mục tiêu chính sách tăng trưởng bền vững, WB cho rằng, suy giảm tốc độ tăng trưởng của các quốc gia thể hiện rõ ở sản xuất hàng xuất khẩu trong chuỗi cung ứng sản phẩm chủ yếu và mặt hàng điện tử giảm mạnh. Tuy nhiên, do nhu cầu hàng hóa và nguyên liệu đầu vào của những nền kinh tế đang phát triển còn lớn nên những nước giầu tài nguyên vẫn duy trì được lượng hàng xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP ở mức độ cao. Từ những nhận định đưa ra,Trung Quốc đã trở thành nguồn cầu quan trọng của thế giới và việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu vào đất nước này cũng hứa hẹn mang lại lợi ích cho những nhà sản xuất xuất khẩu khu vực.

Ở tầm ngắn và trung hạn, WB nhận định, tăng trưởng kinh tế Đông Á bị hạn chế bởi bất ổn tài chính và tác động của thiên tai; giải quyết chậm trễ vấn đề nợ công làm gia tăng mối quan ngại của nhiều nhà đầu tư. Một khi dòng vốn ra khỏi thị trường mới nổi để đổ vào những thị trường tương đối an toàn thì nhiều hạng mục đầu tư bị đảo ngược và thị trường cổ phiếu khu vực có nguy cơ suy giảm giá trị. Nhìn chung, thị trường Đông Á trong tình trạng dễ bị tác động; giải pháp củng cố tài khóa của khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng; các ngân hàng phương Tây cần gia tăng vốn và dòng vốn chảy ra khỏi các nước đang phát triển Đông Á là điều khó tránh (đến nay, dư nợ của các nước đang phát triển khu vực đối với ngân hàng châu Âu đã lên tới 427 tỉ USD, tương đương với 6% tổng GDP).

Sau trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản, nhiều nước Đông Á phải gánh chịu thiệt hại do sự gián đoạn của chuỗi cung ứng cho các ngành điện tử và động cơ. Mặc dù nhiều nước đã có giải pháp tập trung khôi phục lại đà tăng trưởng và sản lượng sản xuất, song tốc độ tăng trở lại của khu vực còn lệ thuộc vào nhu cầu thiết bị điện tử và xe hơi toàn cầu. Trong năm 2011, thiên tai liên tiếp diễn ra trong khu vực cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế; những trận lũ lụt kinh hoàng trên diện rộng khiến tăng trưởng GDP năm 2011 của nhiều nước bị sụt giảm; riêng Thái Lan nhiều khả năng chỉ tăng 2,4%, thậm chí còn thấp hơn nữa.

Công cuộc tái thiết có thể góp phần lấy lại đà tăng trưởng của nhiều quốc gia; song việc phục hồi mạng lưới sản xuất còn nhiều trở ngại, thách thức cần được nghiên cứu, kiểm tra. Những bất ổn tài chính tạo áp lực lớn về tỉ giá; các nhà hoạch định chính sách đã có biện pháp can thiệp vào thị trường tiền tệ; song theo WB, điều quan trọng cần là có bước đi thận trọng nhằm tránh rủi ro tài chính có thể phát sinh do những biến động suy giảm tài sản diễn ra đột ngột.

Trước thực trạng suy thoái toàn cầu, các nhà hoạch định chính sách khu vực đã nghiêm túc xem xét lại việc lựa chọn chính sách thích hợp. Trong ngắn hạn, thách thức cơ bản vẫn là cân bằng giữa kích thích tăng trưởng và ứng phó với những ảnh hưởng bất ổn của kinh tế toàn cầu. Chính phủ nhiều nước tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt và sẵn sàng hành động nếu xuất hiện những cú sốc tiêu cực đến tăng trưởng hoặc vấn đề nợ công có bất ổn. W.B cho rằng, cho dù không mạnh như trước khủng hoảng tài chính 2008, nhưng trạng thái tài chính tại hầu hết các quốc gia có thu nhập trung bình vẫn có điều kiện để thực hiện kích thích tài chính nếu cần. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng thấp trong nền kinh tế toàn cầu kéo dài thì giải pháp này sẽ là không đủ (WB 2011).

Tăng trưởng chậm của kinh tế toàn cầu là thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội để chính phủ các nước đang phát triển Đông Á tập trung vào cải cách nhằm thúc đẩy tăng trưởng trung và dài hạn. Theo WB, mục tiêu nâng cao năng suất và hướng tới lĩnh vực sản xuất có giá trị gia tăng cao có thể thực hiện được bằng đầu tư nhiều hơn vào xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục và hệ thống an sinh xã hội. Đối với những nước đã đầu tư cao, tăng cường chất lượng và hiệu quả đầu tư cần được coi là ưu tiên hàng đầu cùng với tái cân bằng tăng trưởng hướng vào tiêu dùng trong nước. Theo đó, cải thiện các chương trình đầu tư công và khung khổ pháp lý sẽ là giải pháp nâng cao chất lượng và tăng cường tỉ lệ đầu tư.

Trước những thách thức phải đối mặt, đầu tư vào hoạt động quản lý và ứng phó với thiên tai cũng là mục tiêu quan trọng cần được quan tâm. Chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới, Ekaterina Vostroknutova nhận định “ Chính phủ có thể nhân cơ hội này tái tập trung vào cải cách để thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn. Đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục và an sinh xã hội có thể giúp nâng cao hiệu suất và hướng tới sản xuất giá trị gia tăng cao hơn. Mọi chương trình kích thích tài chính khả thi cần phải có tính bền vững, xác định đúng mục tiêu và định hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, những yếu tố được coi là cần thiết để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn dựa vào tình hình trong nước”( WB 2011)

Trong chèo lái kinh tế vượt qua khủng hoảng kinh tế đang phát triển, Đông Á – Thái Bình Dương đang phải đối phó với nhiều rủi ro, bất ổn toàn cầu và thảm họa thiên tai; song theo nhiều phân tích, một khi bất ổn được khắc phục, dòng vốn có thể quay trở lại. Nếu tích cực chuẩn bị, những nỗ lực khu vực trong sử dụng tỉ giá hối đoái linh hoạt và tạo lập chính sách tiền tệ độc lập hơn cũng như chuyển nhu cầu tiêu dùng sang nguồn cung trong nước để đón nhận thời cơ sẽ là cách lựa chọn có ích, nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hội nhập khu vực. Theo đó, đầu tư của các quốc gia trong mối quan hệ đối tác nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng khu vực, góp phần giảm thiểu tác động từ tình trạng giảm cầu của các nước phát triển có thể là cách ứng phó hữu hiệu để hình thành vai trò mới của Đông Á trong nền kinh tế toàn cầu./.

Tài liệu tham khảo chính
1. WB - Navigating Turbulence, Sustaining Growth;
2. East and Pacific Economic Update , Volume 2, November 2011;
3. WB - Báo cáo tại hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà Nội ngày 6 tháng 12 năm 2011



Bài 2: Việt Nam trong phát triển kinh tế khu vực, từ góc nhìn phân tích và quản lý