1. Quy định về đầu tư ra nước ngoài
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 115 dự án đầu tư ra nước ngoài, trong đó 111 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 222,9 triệu USD, vốn pháp định trên 198 triệu USD. Các nước có nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam là Liên bang Nga, có 11 dự án, với tổng vốn đầu tư gần 35 triệu USD và Lào có 32 dự án, với tổng vốn là 20,5 triệu USD. Ngoài các lĩnh vực đầu tư mang tính chất sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ phổ biến, còn có lĩnh vực sẽ mang đến nhiều triển vọng và quan trọng đối với nền kinh tế nước ta là tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí với một số dự án có tiềm năng phát triển ở In-đô-nê-xia, An-giê-ri, I-rắc... Điều này cho thấy rõ vai trò của đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của ta chưa được quy định trong luật. Hiện tại, Việt Nam mới có Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ và một số văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan. Ngay Nghị định số 22/1999/NĐ-CP khi ban hành, vì chưa có luật quy định nên phải xin phép ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Điều 56 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định 22/1999/NĐ-CP sau thời gian thực hiện đã bộc lộ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung. Nghị định sửa đổi này hiện đang được trình Chính phủ để ban hành. Do đó, việc quy định đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam trong Luật Đầu tư chung là vấn đề cần thiết và đã chín muồi. Dự thảo dành một chương với năm điều, quy định những vấn đề có tính nguyên tắc nhất làm cơ sở pháp lý để Chính phủ hướng dẫn thi hành. Theo quy định của Dự thảo luật, tất cả các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế đều được đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp, nhằm mục đích thu lợi nhuận theo quy định của pháp luật Việt Nam và của nước tiếp nhận đầu tư. Nhà nước Việt nam bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư ra nước ngoài và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư Việt Nam tại nước ngoài theo các điều ước quốc tế. Đối với doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài khi đầu tư ra nước ngoài cần phải đáp ứng thêm các điều kiện:
- Đã góp đủ vốn pháp định;
- Vốn đầu tư ra nước ngoài được sử dụng từ lợi nhuận và các khoản đầu tư được phép chuyển ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Dự thảo luật cũng quy định nghiêm cấm đầu tư ra nước ngoài đối với những dự án gây hại đến bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng, lịch sử, văn hoá và thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
Bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc như trình bày ở trên, các nhà đầu tư còn có các nghĩa vụ về tài chính, thuế, thực hiện chế độ báo cáo tài chính và báo cáo hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Có thể nói, với những quy định mới này, đây là bước tiến mới trong việc xây dựng các quy định pháp luật về đầu tư ra nước ngoài, tạo hành lang và nâng cao hiệu lực pháp lý của quy định hiện hành về đầu tư ra nước ngoài.
2. Hình thức đầu tư
Trong các hình thức đầu tư quy định tại Dự thảo, đầu tư hình thành tổ chức kinh tế, đầu tư theo dự án, mua cổ phần, góp vốn trực tiếp vào các tổ chức kinh tế, sáp nhập và mua lại, các hình thức đầu tư gián tiếp thì hình thức đầu tư gián tiếp là vấn đề mới. Trên thực tế, đầu tư gián tiếp được thực hiện thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán khác. Hình thức đầu tư gián tiếp được quy định trong luật góp phần vào việc thu hút vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn còn nhàn rỗi trong dân. Kinh nghiệm và thực tiễn bán đấu giá cổ phiếu của một số công ty nhà nước chuyển sang công ty cổ phần tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội thời gian qua là những ví dụ sinh động. Tuy vậy, các hoạt động đầu tư gián tiếp chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, thông qua các sàn giao dịch, không trực tiếp quản lý, kiểm soát công ty và cần phải tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành như chứng khoán, Luật về Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm, nên đây là cơ sở ban đầu để chúng ta tiếp tục có những văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các hình thức đầu tư khác quy định trong Dự thảo luật này được mở rộng so với quy định hiện hành, theo đó, nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty cổ phần, công ty hợp danh, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam, mua lại và sáp nhập (Merge and Acquisition-M&A). Việc quy định này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam có sự lựa chọn đa dạng hình thức đầu tư và mang tính khuyến khích, hấp dẫn đầu tư hơn.
3. Quy định đầu tư liên quan đến thương mại
Theo lộ trình mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương, Dự thảo Luật đã có quy định xóa bỏ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), cụ thể khi thực hiện hoạt động đầu tư, nhà đầu tư không bị bắt buộc phải thực hiện các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bao gồm:
- Yêu cầu xuất khẩu, mua nguyên liệu, hàng hoá trong trong nước;
- Yêu cầu phải gắn hoạt động đầu tư với phát triển nguồn nguyên liệu;
- Yêu cầu thực hiện tỷ lệ nội địa hoá;
- Những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại khác.
Việc xây dựng quy định này mang tính bảo đảm đầu tư cao, các nhà đầu tư chỉ căn cứ vào khả năng, nhu cầu của thị trường, thị trường nội địa, thị trường ngoài nước mà thực hiện các đầu tư của mình, không bị ràng buộc bởi các yếu tố khác. Điều này thể hiện được quyền bình đẳng, tự do đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Còn nhiều nội dung mới quy định trong Luật đầu tư như: bảo đảm thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, việc thực hiện đăng ký đầu tư, quy định về đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, vấn đề cụm công nghiệp...Tất cả những nội dung và tinh thần mới của Luật đầu tư trong dự thảo này thể hiện chính sách nhất quán của Việt Nam là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm mục đích phát huy nội lực, huy động nhiều hơn, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài của mọi thành phần kinh tế. Một vấn đề không kém quan trọng khi Dự thảo Luật Đầu tư được thông qua là việc hướng dẫn thi hành và thực thi các điều luật trong cuộc sống. Thực hiện đúng, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về đầu tư đó chính là ngọn nguồn của việc thu hút đầu tư./.