Bộ Công Thương cho biết, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) mở ra một ô cửa nhỏ cho gạo Việt, khi dành lượng hạn ngạch thuế quan 80.000 tấn mỗi năm, lượng gạo trong phạm vi này được hưởng thuế suất 0%, tức là dỡ bỏ hoàn toàn thuế quan.
Cụ thể, theo cam kết trong EVFTA, EU sẽ dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo (thuế 0%) đối với gạo xay xát và gạo thơm, đồng thời xóa bỏ thuế đối với tấm trong 5 năm. Đây là cơ hội lớn để đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang EU trong thời gian tới.
Thông tin rõ hơn về tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới, ông Trần Quốc Toản - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đã có chia sẻ xung quanh vấn đề này.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về hiện trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua?
Phó Cục trưởng Trần Quốc Toản: Ngay từ đầu năm 2020, dịch Covid-19 và thiên tai dịch bệnh đã tác động đến kinh tế Việt Nam nói chung và ngành gạo của Việt Nam nói riêng. Từ đó, tâm lý tiêu dùng của người dân bị ảnh hưởng, các quốc gia tăng dự trữ thu mua khiến nhu cầu gạo tăng cao trên thế giới.
Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành đã kịp thời điều hành, linh hoạt hoạt động xuất nhập gạo, thực hiện đúng theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo và Luật Quản lý ngoại thương.
Qua đó, Việt Nam đã đảm bảo tiêu thụ hết lúa gạo cho người nông dân, đảm bảo nguồn tiêu dùng trong nước và có lượng xuất khẩu ổn định về giá.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2020 đã đạt được những kết quả tích cực.
Thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 8 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đã đạt 4,61 triệu tấn, tăng 0,6% về lượng và 13% về giá trị, sang 150 thị trường và khu vực thị trường. Trong đó châu Á vẫn là khu vực thị trường trọng điểm, chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo; tiếp đó là châu Phi 19%; châu Âu 2%...
Ngoài ra, cơ cấu chủng loại gạo cũng có sự thay đổi, từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm cấp thấp, cấp trung bình sang các sản phẩm cấp cao, đảm bảo đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thế giới.
Phóng viên: Đã có thời điểm, xuất khẩu gạo tăng rất cao so với cùng kỳ. Vậy, theo ông nguyên nhân là do thiếu cung hay chất lượng gạo xuất khẩu đã được cải thiện?
Phó Cục trưởng Trần Quốc Toản: Vấn đề này tập trung vào cả hai yếu tố. Bởi, ngay từ những tháng đầu năm, ảnh hưởng của Covid-19 và thiên tai, tác động dịch bệnh đã làm ảnh hưởng, làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng người dân các nước và nguồn dự trữ các quốc gia nên lượng xuất khẩu gạo tăng cao.
Cùng với đó, Việt Nam đã có sự điều chỉnh trong sản xuất lúa gạo cũng như sự chuyển đổi từ sản phẩm chất lượng thấp, chất lượng trung bình sang chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng những quốc gia khó tính như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... nên giá trị xuất khẩu cũng tăng cao.
Phóng viên: Theo Hiệp định EVFTA, EU cấp hạn ngạch cho gạo Việt Nam 80.000 tấn/năm với thuế suất 0%. Con số này chưa phải là lớn, nhưng nhiều ý kiến cho rằng sẽ mở ra cánh cửa nâng tầm cho chất lượng gạo Việt. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Phó Cục trưởng Trần Quốc Toản: Đối với gạo, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm). Đặc biệt, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm.
Vì vậy, Hiệp định EVFTAđược xem là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu các loại gạo chất lượng cao và đặc sản.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU khoảng 100.000 tấn gạo/năm. Hiện nay, theo cam kết Hiệp định EVFTA, phía EU dành cho Việt Nam mức hạn ngạch 80.000 tấn/năm miễn thuế.
Khi Việt Nam tham gia Hiệp định EVFTA, các điều kiện tiêu chuẩn mà EU áp cho hàng hóa Việt Nam; trong đó, có gạo là rất cao, kể cả về quy định an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, dán nhãn sản phẩm…
Bên cạnh đó, theo Nghị định 103/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chứng nhận gạo thơm xuất khẩu sang Liên minh châu Âu, doanh nghiệp muốn xuất khẩu gạo thơm vào EU phải đáp ứng các yêu cầu về nguồn giống; có diện tích vùng trồng, địa điểm sản xuất đáp ứng yêu cầu; có các biên bản kiểm tra đánh giá chất lượng từng lô hàng ở từng thời điểm kiểm tra để có thể xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường này...
Bởi vậy, các doanh nghiệp đã có sự thay đổi, cải thiện về quá trình sản xuất để đáp ứng được tiêu chuẩn của EU và chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao, không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị trường EU mà còn nhiều thị trường khó tính khác.
Đặc biệt, việc giảm thuế suất cũng sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho gạo Việt Nam trên thị trường EU so với các sản phẩm của các nước khác, những thương hiệu gạo khác.
Chúng tôi hy vọng, hạn ngạch này sẽ giúp tăng lượng xuất khẩu gạo Việt Nam vào thị trường EU cũng như thúc đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo vào thị trường EU.
Không những thế, đây cũng là lực đẩy để doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu sản xuất nhiều chủng loại gạo khác để được xuất khẩu vào EU, ngoài 9 loại gạo đã được thị trường này cho phép.
Phóng viên: Với những đòi hỏi cao của thị trường EU, ông đánh giá thế nào về khả năng đáp ứng của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay?
Phó Cục trưởng Trần Quốc Toản: Để được xuất khẩu gạo vào EU, các thương nhân Việt Nam phải đáp ứng một số tiêu chuẩn được quy định rõ. Đơn cử như Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo đã quy định chặt chẽ việc thương nhân xuất khẩu gạo phải có được cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến.
Đồng thời, có đầu tư vùng trồng, liên kết chặt chẽ với bà con nông dân và đưa ra các quy trình canh tác chặt chẽ để đưa ra các sản phẩm chất lượng cao xuất khẩu vào các thị trường khó tính…
Do đó, với các điều kiện của thị trường EU, tôi tin rằng doanh nghiệp của Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng đáp ứng. Chưa kể, năm 2019 gạo ST25 của Việt Nam đã đạt danh hiệu gạo ngon nhất thế giới, khẳng định chất lượng giống gạo của Việt Nam.
Hơn nữa, thời gian qua, các Bộ, ngành địa phương đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp với các chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, các mô hình liên kết tiêu thụ lúa gạo cho người nông dân, các đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng và phát triển thương hiệu gạo Việt nên quy trình sản xuất của thương nhân hiện nay rất chặt chẽ, tạo ra nguồn gạo chất lượng có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn và tự tin xuất khẩu vào thị trường EU.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!