Về giá nông phẩm: Trong tuần, giá dầu ăn biến động nhẹ, trong đó: Giá dầu đậu nành giảm 0,1%, dầu hạt cải tăng 0,1%, dầu lạc duy trì ổn định. Giá bán lẻ lương thực tăng nhẹ, trong đó: Giá bột đóng túi loại vừa và nhỏ tăng 0,4%, gạo đóng túi loại nhỏ duy trì ổn định. Giá bán buôn bình quân của 18 loại rau củ tăng 1,3%, trong đó: Giá cà chua, gừng tươi và mướp đắng tăng mạnh nhất, lần lượt tăng với mức 19,9%, 15,3% và 6,3%.
Về giá nguyên vật liệu sản xuất: Trong tuần, giá nhiên liệu, kim loại màu, vật tư nông nghiệp và sản phẩm hóa chất giảm; giá thép ổn định; giá nguyên liệu ngành công nghiệp nhẹ, khoáng sản, cao su và vật liệu xây dựng tăng.
Giá nhiên liệu giảm 0,6%. Trong đó: Giá dầu thô, than thô lần lượt giảm 2,8% và 3%, giá than cốc duy trì ổn định.
Giá kim loại màu giảm 0,5%. Trong đó: Giá đồng, niken, chì và nhôm lần lượt giảm 1,2%, 0,6%, 0,4% và 0,2%. Giá kẽm duy trì ổn định, giá thiếc tăng 1,7%.
Giá thép duy trì ổn định. Trong đó: Giá thép silic không định hướng 0,5mm, giá thép chữ C lần lượt tăng 0,3% và 0,1%; giá thép chữ L giảm 0,3%.
Giá nguyên liệu ngành công nghiệp nhẹ tăng 0,1%. Trong đó: Giá bông tăng 1,1%, giá sợi duy trì ổn định.
Giá quặng tăng 0,4%. Trong đó: Giá quặng thiếc, sắt và kẽm lần lượt tăng 2,9%, 0,5% và 0,4%; giá quặng đồng, chì duy trì ổn định.
Giá cao su tăng 0,4%. Trong đó: Giá BR, SBR và NBR lần lượt tăng 4,1%, 2,3% và 2,1%; giá cao su tiêu chuẩn loại 1 sản xuất trong nước của Trung Quốc và giá cao su tấm khói nhập khẩu lần lượt giảm 2,1% và 1,9%.
Giá
vật liệu xây dựng tăng 1%. Trong đó: Giá xi măng, thủy tinh và nguyên liệu gỗ lần
lượt tăng 1,5%, 0,9% và 0,8%.