Giá mặt hàng nông sản, nguyên liệu của Trung Quốc tuần từ 16 – 22/12

Theo các số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc, trong tuần từ 16 – 22/12, giá các loại nông sản tại 36 thành phố chính của Trung Quốc đã tăng nhẹ; trong khi đó, giá các loại nguyên nhiên liệu, sản phẩm

Nông sản

So với một tuần trước đó, giá bán buôn trung bình 18 loại rau củ quả tại thị trường Trung Quốc đã tăng 2,3%. Trong đó, dưa hấu và các rau quả khác như: mướp đắng, đậu xanh và ớt xanh là những loại rau củ quả có mức tăng giá mạnh nhất với mức tăng lần lượt đạt: 9,6%, 7,1% và 5,3%. Giá bán buôn trung bình các loại thủy sản đã tăng 0,2% so với một tuần trước do nguồn cung thủy sản đã giảm xuống trong mùa đông.

Giá bán lẻ các loại ngũ cốc và dầu ăn tại Trung Quốc đã dao động nhẹ. Giá bán bao gạo loại nhỏ, bao bột loại nhỏ và dầu đậu nành đã lần lượt tăng 0,2%, 0,2% và 0,1% so với một tuần trước đó. Bên cạnh đó, giá dầu hạt cải và dầu đậu phộng đã giảm lần lượt 0,3% và 0,1%. Giá bán lẻ thịt gia cầm và trứng đã biến động nhẹ. Trong đó, giá bán bán buôn thịt gà đã tăng 0,1%; giá trứng giảm 0,1%.

Nguyên nhiên liệu

Trong tuần từ 16 – 22/12, giá các loại nhiên liệu trên thị trường Trung Quốc đã tăng 1,2% so với một tuần trước đó. Trong đó, giá than nguyên khai đã tăng 2,7%, giá than cốc tăng 1,1% nhưng giá dầu thô đã giảm nhẹ 0,5%.

Giá các loại nguyên liệu dùng cho sản xuất nông nghiệp đã tăng 0,1%; giá phân bón urê đã tăng 0,3%.

Giá các loại khoáng sản cơ bản đã được giữ không đổi. Giá quặng đồng và quặng vonfram đã lần lượt giảm 0,9% và 0,8%; giá quặng sắt được giữ không đổi.

Giá thép tấm thông thường loại 10 mm và giá thanh thép tròn loại Φ 16 mm đã lần lượt tăng 0,2% và 0,1%; giá thép cuộn đã được giữ không đổi. Trong khi đó, giá ống thép loại 20 x 1,2 và thanh thép tròn có ren loại Φ 12 mm đã lần lượt giảm 0,2% và 0,1%.

Giá các loại hóa chất đã giảm 0,2%; trong đó, giá methylbenzene, polystyrene và polypropylene đã giảm lần lượt 1,7%, 0,9% và 0,5%.

Giá các kiam loại màu đã giảm 0,3%. Trong đó, giá nhôm loại A00, giá niken loại 1 và giá đồng loại 1 đã lần lượt giảm 0,9%, 0,6% và 0,5%; giá kẽm loại 1 đã được giữ không đổi. Ngược lại, giá chì loại 1 và thiếc loại 1 đã lần lượt tăng 0,7% và 0,4%.

Giá các loại cao su tại thị trường Trung Quốc đã giảm 1,6%; giá cao su butadiene-styrene, cao su butadiene-acrylonitrile và cao su butadiene đã lần lượt giảm 2,4%, 2,1% và 1,8%. Giá cao su loại 1 theo tiêu chuẩn Trung Quốc và cao su tờ xông khói loại 3 được nhập khẩu vào Trung Quốc đã lần lượt giảm 1,2% và 1%.

Lê Nam