Gia nhập WTO - cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá ngày càng phát triển mạnh, để xây dựng thành công một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời hội nhập sâu rộng, nhằm tranh thủ tốt nhất các điều kiện quốc tế để phát

Mục tiêu chính của WTO là thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc cắt giảm các rào cản thuế quan và phi thuế quan để các luồng hàng hóa, dịch vụ được lưu chuyển tự do hơn giữa các nước và trên phạm vi toàn cầu. Nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO là quy định các nước thành viên phải dành cho nhau chế độ đối xử tối huệ quốc (MFN), nghĩa là, khi một nước đối xử ưu đãi đối với hàng hoá và dịch vụ của một nước nào đó thì cũng phải dành sự ưu đãi như thế cho hàng hóa và dịch vụ của các nước khác. Khi MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các thành viên của WTO thì đó cũng có nghĩa là nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì các nước đều dành cho nhau sự đối xử ưu đãi nhất.
Tham gia WTO, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang các nước và trên quy mô toàn cầu, miễn là hàng hóa và dịch vụ đó có sức cạnh tranh, tiếp cận được thị trường của các nước thành viên WTO khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có điều kiện nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và dịch vụ cần thiết với chất lượng tốt và giá cả thuận lợi để phục vụ sản xuất.
Tham gia WTO, nước ta nói chung và các doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư nước ngoài (cả đầu tư trực tiếp và qua thị trường chứng khoán). Do mở rộng được thị trường tiêu thụ ra quy mô thế giới, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam để tận dụng các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhân công rẻ, tài nguyên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi… để sản xuất phục vụ xuất khẩu ra thị trường khu vực và toàn cầu. Mặt khác, tham gia WTO với những cam kết thực hiện các luật lệ liên quan đến thương mại và đầu tư của WTO sẽ làm tăng lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư của Việt Nam.
Tham gia WTO, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tốt hơn để đấu tranh giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại quốc tế một cách xây dựng và công bằng. WTO tạo cho các nước một kênh giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại quốc tế mang tính xây dựng và công bằng, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, hạn chế tối đa các hành động đơn phương độc đoán của các đối tác thương mại, nhất là các đối tác lớn. Đến nay đã có hơn 200 vụ tranh chấp được đưa ra xét xử tại WTO kể từ khi tổ chức này được thành lập năm 1995. Một số vụ tranh chấp trong số này đã có thể dẫn đến chiến tranh thương mại gây tác hại nghiêm trọng nếu không có cơ chế giải quyết một cách xây dựng như WTO đã làm trong thời gian qua (ví dụ gần đây nhất là tranh chấp thương mại về thép giữa Mỹ với EU, Hàn Quốc, Trung Quốc và phán quyết của toà án WTO cho phép các nước EU trả đũa Mỹ đã buộc Mỹ phải chấm dứt đánh thuế phân biệt đối xử đối với sản phẩm thép của EU). Trên thực tế, nhiều nền kinh tế thành viên của WTO tuy nhỏ yếu nhưng đã thắng nhiều vụ kiện với Mỹ. Nếu là thành viên WTO, Việt Nam đã có thể đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vụ kiện bán phá giá cá tra, basa hoặc vụ kiện tôm của phía Mỹ để có một phán quyết công bằng, giảm bớt thiệt hại cho nông dân và các DNVN.
Tuy việc tham gia WTO mang lại cho DNVN những cơ hội và điều kiện thuận lợi như nói trên, nhất là việc mở rộng thị trường quốc tế, phát triển sản xuất, tạo việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hóa, nâng dần sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhưng đó mới là điều kiện cần thiết. Trên thực tế, có đạt được những lợi ích này hay không và đạt ở mức độ nào còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan mà cả Nhà nước và các doanh nghiệp đều phải quyết tâm giải quyết một cách năng động và hiệu quả.
Tham gia cơ chế thương mại toàn cầu WTO sẽ đặt nền kinh tế đất nước cũng như các doanh nghiệp trước những thách thức vô cùng to lớn.
Sức ép cạnh tranh để giành giật thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ ngày càng lớn trên quy mô toàn cầu và ngay chính trên thị trường nội địa của ta. Khi mở cửa nền kinh tế (hạ thấp hoặc cắt giảm các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan) cho 148 thành viên của WTO, trong đó có những đối tác kinh tế rất hùng mạnh, sức ép cạnh tranh đối với nền kinh tế của ta, ở từng địa phương, từng doanh nghiệp sẽ không chỉ mở rộng về phạm vi mà còn rất cụ thể đối với từng ngành công nghiệp, thậm chí từng sản phẩm, từng ngành hàng vì mỗi thành viên trên có những ưu thế và lợi thế cạnh tranh riêng. Điều này đã thấy rõ khi Việt Nam thực hiện các cam kết trong khuôn khổ của ASEAN/AFTA và Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Có một điều cần lưu ý là, mức độ và phạm vi cạnh tranh trong WTO sẽ mạnh và rộng hơn rất nhiều. Do đó, nếu không tích cực chuẩn bị tốt thì khi gia nhập WTO, chúng ta khó tận dụng được cơ hội mở rộng thị trường mà khả năng cạnh tranh hiệu qua ngay tại sân nhà cũng bị thách thức.
Sức ép nặng nề nhất là phải thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất ra các sản phẩm theo nhu cầu thị trường quốc tế cả về thị hiếu, chất lượng và tiêu chuẩn. Từ trước đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ tập trung sản xuất những mặt hàng mà chúng ta có khả năng sản xuất, chứ không chú ý sản xuất những mặt hàng mà thị trường thế giới cần. Nay, tham gia vào hệ thống thương mại đa phương với quy mô toàn cầu, cần chú ý nâng cao năng lực sản xuất các mặt hàng để phục vụ người tiêu dùng thế giới. Mặt khác, cơ cấu sản phẩm tiêu dùng của thế giới hiện nay thay đổi rất nhanh, làm cho công nghệ cũng phải thay đổi rất nhanh mới đáp ứng được việc sản xuất ra sản phẩm đa dạng, với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu.
Khi đã tham gia đầy đủ vào nền kinh tế thị trường và nhất là khi tiếp cận được với thị trường toàn cầu, quy luật lợi nhuận sẽ thúc đẩy mở rộng đầu tư tái sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Tình hình này có thể dẫn đến những nguy cơ sản xuất ồ ạt, không có kế hoạch, chỉ chạy theo lợi nhuận, bất chấp những hệ quả xấu có thể phát sinh như cạn kiệt tài nguyên, làm cho đất bạc màu, huỷ hoại môi trường sinh thái, phá rừng gây ra lụt lội, ô nhiễm môi trường do khí và chất thải công nghiệp… Một thí dụ rõ rệt là việc nuôi tôm đại trà không có kế hoạch ở nhiều địa phương để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu vừa qua đã dẫn đến nạn phá rừng ngập mặn, kể cả rừng phòng hộ, khoanh vùng dẫn nước mặn vào để nuôi tôm… đã làm suy thoái môi trường sống của các loài động thực vật và người dân ở các vùng này, mà hậu quả còn cần nhiều thời gian mới khắc phục được.
Vấn đề đặt ra là, để tranh thủ các cơ hội và điều kiện thuận lợi do việc tham gia WTO mang lại, đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị tốt các vấn đề sau:
Xây dựng và tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong toàn doanh nghiệp nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vấn đề hội nhập quốc tế và tham gia WTO, thấy rõ cả cơ hội và những thách thức để chủ động chuẩn bị.
Các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu xác định những lĩnh vực, ngành hàng, mặt hàng mình có thế mạnh hoặc điều kiện thuận lợi để phát triển, trên cơ sở đó chủ động điều chỉnh và thu hút các nguồn lực để tập trung phát triển các mặt hàng có hiệu quả và có sức cạnh tranh quốc tế.
Các doanh nghiệp cần quan hệ chặt chẽ với các bộ ngành ở trung ương và các công ty hoạt động kinh doanh quốc tế để nắm bắt tình hình và xu hướng thị trường quốc tế, trên cơ sở đó quyết định các kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp và có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.
Các doanh nghiệp tích cực chuẩn bị tốt cho việc cùng cả nước tham gia hội nhập quốc tế, trong đó có việc tham gia WTO, tăng cường năng lực lãnh đạo và quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu của quá trình tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Trên cơ sở nắm bắt đúng nhu cầu của thị trường thế giới, cần đa dạng hóa các ngành hàng sản xuất và sản phẩm, tránh phụ thuộc quá mức vào một vài sản phẩm để có khả năng điều chỉnh linh hoạt khi thị trường thế giới có biến động, đồng thời tạo điều kiện giải quyết lực lượng lao động dôi dư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu.
Nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và kinh doanh cập nhật thông tin về thị trường và kịp thời tiến hành những quan hệ thương mại trực tiếp với các đối tác nước ngoài, hạn chế phụ thuộc vào các khâu trung gian.
Tăng cường cử cán bộ đi nghiên cứu thị trường ở nước ngoài, tham gia một số cuộc hội chợ, triển lãm cần thiết về ngành hàng mà doanh nghiệp có thế mạnh, qua đó tìm hiểu được nhu cầu của thị trường, tìm kiếm đối tác. Cần giữ liên hệ thường xuyên với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để yêu cầu cung cấp thông tin về thị trường và thẩm định đối tác.
Trên thực tế, cơ hội và thách thức luôn luôn đan xen nhau, nếu không biết cách nắm bắt và tận dụng kịp thời thì cơ hội có thể lại trở thành thách thức. Vì vậy, bằng việc tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện đĩ tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tin rằng, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tranh thủ được vận hội mới sắp mở ra, để đẩy mạnh phát triển và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của quá trình này.

  • Tags: