TÓM TẮT:
Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trọng và được các trường đại học hiện nay đặc biệt quan tâm. Việt Nam đang phát triển kinh tế mạnh mẽ, do đó, việc xây dựng được đội ngũ nhân lực kế toán đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng càng trở nên cấp thiết. Điều này chỉ thực sự đạt được khi công tác đào tạo nguồn nhân lực kế toán từ phía các trường đại học phải ngày càng nâng cao chất lượng mới đáp ứng lại được sự kỳ vọng của nhà tuyển dụng.
Từ khóa: Chất lượng đào tạo, ngành Kế toán, trường đại học.
I. Đặt vấn đề
Để có những chuyên gia kế toán và kiểm toán được đào tạo ở bậc đại học đòi hỏi phải đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương thức đào tạo kế toán và kiểm toán. Về chương trình đào tạo, cần đa dạng hơn, linh hoạt hơn cho các chuyên ngành kế toán và kiểm toán. Về nội dung, cần phong phú về kiến thức để vừa đảm bảo những kiến thức lý thuyết cơ bản, có tính nguyên lý, đạo lý và khoa học vừa có tính thực tiễn. Khoa học kế toán có tính độc lập và khá hoàn chỉnh cả về nội dung và phương pháp luận nhưng dựa trên nền tảng của khoa học quản lý và lý thuyết tài chính. Vì vậy, nội dung đào tạo không chỉ bao hàm những kiến thức mang tính nguyên lý, nguyên tắc của kế toán, kiểm toán; không chỉ là kỹ năng về phương pháp kế toán, kiểm toán mà rất cần những kiến thức về lý thuyết kinh tế, quản lý kinh tế và tài chính... Kiến thức về kế toán và kiểm toán không chỉ dừng lại ở phương pháp kế toán, kiểm toán, phương pháp xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính mà quan trọng hơn là kỹ năng tổ chức thu thập, đánh giá thông tin, kỹ năng sử dụng thông tin do kế toán xử lý và cung cấp, do kiểm toán đã kiểm tra, đánh giá và xác nhận. Con số của kế toán phải là con số biết nói, con số phản ảnh thực trạng kinh doanh, thực trạng tài chính của tổ chức, doanh nghiệp. Cần phải cung cấp cho người học kỹ năng nhìn nhận, đánh giá và phân tích thông tin do kế toán và kiểm toán cung cấp.
Phương thức đào tạo cũng cần có thay đổi căn bản, hạn chế cách đào tạo truyền thống, nặng về lý thuyết, xa rời thực tế, dẫn đến sinh viên ra trường chậm làm quen với công việc. Không ít trường hợp phải đào tạo thêm, đào tạo lại ngay trong quá trình làm việc. Chấm dứt cách giảng dạy thụ động, người học buộc phải coi các quy định trong chế độ kế toán của Nhà nước là kiến thức kế toán chuẩn. Cần phải tạo cho người học hiểu và phát triển lý luận mang tính bản chất của kế toán và kiểm toán. Chế độ kế toán hay các quy định kế toán, kiểm toán của Nhà nước trong từng thời kỳ, trong từng cơ chế quản lý chỉ là sự hiện thân, sự minh chứng cho những nguyên lý mang tính bản chất của kế toán. Hãy chọn phương pháp giảng dạy và phương pháp học tích cực đối với môn học kế toán và kiểm toán. Tăng cường các bài tập tình huống, các trao đổi hai chiều giữa người dạy và người học. Thành lập phòng kế toán ảo ngay trong trường, tạo cơ hội để người học sớm tiếp cận các hoạt động thực tế, các yếu tố, các công việc, phương pháp, giấy tờ, chứng từ, sổ kế toán và mẫu biểu thuộc các phần hành kế toán, kiểm toán. Đây là nội dung quan trọng, có tính quyết định chất lượng đào tạo. Vì vậy, đối với giảng viên cũng cần có những hiểu biết thực tế. Trong quá trình đào tạo nên có sự kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết với những báo cáo thực tế của các chuyên gia kinh tế, các doanh nhân, các nhà kế toán, kế toán trưởng, đưa hơi thở của cuộc sống thực tế, của nghề nghiệp vào quá trình đào tạo.
Sẽ có rất nhiều vấn đề phải suy nghĩ, phải trao đổi từ nhận thức, quan điểm, cách làm để đổi mới căn bản hoạt động đào tạo chuyên ngành kế toán và kiểm toán. Chắc chắn, những nhà kế toán Việt Nam, các nhà giáo, các nhà quản lý giáo dục đại học sẽ làm được, làm tốt công cuộc đổi mới để nâng cao chất lượng đào tạo kế toán và kiểm toán xứng tầm trong khu vực.
II. Thực trạng
Chỉ riêng trong số hơn 400 trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam, hiện có tới hơn 200 trường có đào tạo chuyên ngành kế toán và kiểm toán. Ở nhiều trường đại học kinh tế đào tạo chuyên ngành kế toán và kiểm toán có đủ mọi hệ đào tạo và cấp bậc đào tạo, từ trung cấp, cao đẳng, liên thông đại học, đại học chính quy, cao học và đào tạo tiến sĩ với đủ các hệ chính quy, tại chức, đào tạo từ xa. Mỗi năm có hàng vạn sinh viên, học sinh chuyên ngành kế toán, kiểm toán ra trường. Đó là chưa kể tới hàng trăm lớp dạy nghề kế toán và kiểm toán do các trường lớp, các trung tâm, các doanh nghiệp tổ chức dưới mọi hình thức. Chuyên ngành kế toán và kiểm toán vẫn là chuyên ngành hấp dẫn thu hút nhiều thí sinh dự thi hàng năm. Có trường số lượng sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán chiếm trên dưới một nửa số sinh viên của trường. Ở nhiều trường, điểm trúng tuyển của sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán cao nhất nhì so với các chuyên ngành khác và có trường số sinh viên trúng tuyển chỉ bằng 1/20 hoặc 1/30 số sinh viên dự thi. Điều đó thể hiện nhu cầu về kế toán, kiểm toán của xã hội, của nền kinh tế còn rất lớn và là một nghề được giới trẻ quan tâm. Điều đó cũng hoàn toàn thực tế trong một nền kinh tế đang phát triển.
Xét về khía cạnh cầu nhân lực, ngành kế toán vẫn nằm trong nhóm ngành có nhu cầu tuyển dụng cao. Ngành Kế toán dù nguồn cung cao, tỷ lệ thất nghiệp cao nhưng nhu cầu tuyển dụng cũng cao. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại có nghịch lý như vậy. Theo thông tin phản hồi từ các doanh nghiệp tuyển dụng nhân sự cho bộ phận kế toán có đến 80% - 90% những sinh viên được tuyển dụng chưa có khả năng tiếp cận ngay được với công việc của một “kế toán” thực sự. Khảo sát sinh viên tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo, từ các trường đại học lớn và có uy tín của Việt Nam cho thấy có tới 2/3 trả lời chưa thể nắm bắt được công việc kế toán hay kiểm toán ngay khi được giao mà phải được đào tạo, hướng dẫn lại. Lý giải cho điều này có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó là do chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo chưa đáp ứng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Như vậy, xét một cách tổng thể, thực trạng nguồn nhân lực ngành Kế toán nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng thừa về số lượng song đang có hạn chế, gặp vấn đề về chất lượng. Điều này thể hiện ở nhiều khía cạnh biểu hiện năng lực, chất lượng của nhân lực trong quá trình tìm kiếm việc làm, tăng tiến trong nghề nghiệp như khả năng ngoại ngữ yếu, hiểu biết về văn hóa doanh nghiệp, văn hóa quốc gia còn hạn chế, kỹ năng thực hành nghề nghiệp và tính chủ động công việc chưa cao, khả năng làm việc nhóm có hiệu suất thấp...
Thực trạng trên cho thấy, việc đào tạo nhân lực ngành kế toán tại Việt Nam đang gặp rất nhiều vấn đề. Nguyên nhân của thực trạng này có thể kể đến sự tác động từ nhiều phía. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ phân tích những nguyên nhân đến từ phía các cơ sở đào tạo và sản phẩm của quá trình đào tạo (người sinh viên, học viên chuyên ngành kế toán)
- Về phía cơ sở đào tạo:
Lý giải cho tình trạng nguồn nhân lực do chính các cơ sở đào tạo ra không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng trên thị trường lao động có thể ảnh hưởng từ các nguyên nhân sau :
+ Do chương trình đào tạo ngành Kế toán của cơ sở đào tạo lạc hậu, thiên về lý thuyết hàn lâm, hệ thống các môn học chuyên ngành không phù hợp với hệ thống chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Thực tế hiện này, nhiều cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo của ngành Kế toán từ 120-150 tín chỉ, song tỷ trọng các môn học thuộc về chuyên ngành và chuyên ngành sâu chỉ chiếm khoảng 20% chương trình. Trong số 20% số tín chỉ toàn khóa học ở các môn học chuyên ngành sâu nội dung còn nặng về lý thuyết hàn lâm nên sinh viên vẫn chưa thể tiếp cận được với công việc thực tế. Hệ thống các giáo trình, tài liệu phục vụ học tập nghiên cứu được thiết kế theo các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính và bước đầu tiếp cận với Hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán nhưng cũng chỉ là trên những nguyên tắc chung. Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới, thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tiễn.
+ Do đội ngũ giảng dạy các môn học chuyên ngành, chuyên ngành sâu còn mỏng cả về số lượng lẫn chất lượng.
Mặc dù thực tế hiện nay, các cơ sở đào tạo đã quan tâm nhiều hơn đến chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ các giảng viên, người truyền đạt kiến thức vẫn bộc lộ việc đơn điệu trong phương pháp giảng dạy. Giờ giảng chuyên ngành sâu cho sinh viên, học viên vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang nặng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp.
Việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều, do vậy không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thời gian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế.
Phương pháp giảng dạy về cơ bản tuy đã có sự cải tiến song về cơ bản vẫn tuân thủ theo phương pháp truyền thống thầy đọc, trò chép (hoặc trò nghe) và làm bài tập, không đảm bảo được việc nâng cao kiến thức cho người học.
Đội ngũ giảng viên đảm nhận giảng dạy các học phần về kế toán, kiểm toán phần lớn còn khá trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng công việc thực tế.
- Về phía sinh viên, học viên được đào tạo về ngành học kế toán.
Sự hiểu biết của người học về ngành học mà mình theo đuổi còn chưa rõ ràng; khả năng hướng nghiệp và khởi nghiệp của sinh viên trong quá trình học và sau khi học còn thấp.
Tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học cho qua “học theo hội chứng bằng cấp”, do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
III. Giải pháp
Trên cơ sở phân tích một số các nguyên nhân trong công tác đào tạo nhân lực ngành kế toán. Dưới góc nhìn từ phía đào tạo đại học, các tác giả mạnh dạn có một số các khuyến nghị cụ thể như sau:
- Về phía tổ chức đào tạo:
+ Cần nghiên cứu chương trình đào tạo phù hợp thực tiễn hành nghề, tích cực trong quá trình xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, tích cực trao đổi và tiếp thu kinh nghiệm từ các học viên ở những quốc gia có hệ thống kế toán phát triển cũng như các tổ chức ban hành chuẩn mực quốc tế. Nhà trường cần thúc đẩy các nhóm nghiên cứu khoa học về những lĩnh vực kế toán, kiểm toán nêu trên, các sản phẩm cần được phát hành và phổ biến để làm nền tảng cho những nghiên cứu tiếp theo.
+ Chương trình đào tạo của nhà trường về lĩnh vực kế toán cần được đổi mới theo hướng trang bị những kiến thức và kỹ năng cho học viên vừa phù hợp với thực trạng Việt Nam và chuẩn bị cho những bước tiền đề hội tụ với kế toán quốc tế. Hệ thống chương trình cũng như tài liệu giảng dạy nên được thiết kế lại phù hợp và có cập nhật thường xuyên các chuẩn mực kế toán ban hành. Các trường đại học, cao đẳng, các nơi đào tạo chuyên ngành… cần trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp và việc áp dụng các văn bản pháp quy mới về kế toán trong vai trò hướng dẫn và thu thập các ý kiến đóng góp từ phía các doanh nghiệp.
+ Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiệm cận với chuẩn mực kế toán quốc tế ISA, IFRS. Mạnh dạn phối hợp và tăng cường hợp tác với ACCA, CPA Úc, CIMA... để đổi mới giáo trình đào tạo. Tăng cường giảng dạy ngoại ngữ và ngoại ngữ chuyên ngành để sinh viên có thể chuyển đổi sang bằng cấp quốc tế (ACCA, CPA Úc, CIMA...) dễ dàng hơn. Đối với sinh viên chuyên ngành Kiểm toán cần quy định chuẩn đầu ra về ngoại ngữ nâng cao hơn nữa so với hiện nay.
+ Gia tăng liên kết để nghiên cứu chương đạt chuẩn: Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành như Bộ Tài chính, Hội nghề nghiệp trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán mới, qua đó giúp nhà trường đẩy nhanh việc đổi mới giáo trình một cách toàn diện và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế, cho sinh viên tiếp cận thực tế thường xuyên để nâng cao khả năng thực hành. Thực hiện phương châm đào tạo gắn liền với thực tiễn, tổ chức đào tạo. Nên tổ chức các buổi Hội thảo về kế toán bàn về những văn bản mới ban hành có sự tham gia của các đơn vị hành nghề. Hội thảo sẽ giúp trao đổi thông tin giữa cơ sở đào tạo và đơn vị hành nghề nắm tường tận các quy định mới của Bộ Tài Chính về kế toán.
+ Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý.
+ Ngoài ban giám hiệu, trưởng khoa, hay tổ trưởng chuyên môn phối hợp tiến hành đánh giá năng lực giảng viên thì nên để sinh viên tham gia vào công việc này. Bởi sinh viên mới chính là đối tượng va chạm và tiếp xúc với giảng viên nhiều nhất.
+ Năng cao năng lực giảng viên thông qua việc cử đi học tập, nghiên cứu các chương trình học từ các nước có nền giáo dục phát triển như: Mỹ, Úc, Singapo…
+ Tăng cường quan hệ doanh nghiệp: Thông qua việc đẩy mạnh quan hệ doanh nghiệp, nhà trường có thể không ngừng điều chỉnh, cập nhật, bổ sung chương trình đào tạo, làm cho chương trình đào tạo thực sự sát với nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp trong thực tế. Sinh viên sẽ có cơ hội tìm hiểu thực tế tại doanh nghiệp thông qua các chuyến đi thực tế tại doanh nghiệp, giao lưu, trao đổi với các lãnh đạo doanh nghiệp, và cán bộ, nhân viên tại doanh nghiệp báo cáo, chia sẻ về những chủ đề cụ thể gắn liền với môn học, với chương trình đào tạo từng chuyên ngành cụ thể.
- Về phía người học:
+ Thay đổi suy nghĩ: Xác định việc học là lấy kiến thức, trưởng thành trong suy nghĩ và kỹ năng sống là cơ sở sau này đi làm chứ không phải học để có tấm bằng
+ Phát huy tính chủ động sáng tạo trong học tập, bỏ kiểu học theo hướng thụ động nghe chép và đọc chép, tìm hiểu phương pháp học tập có hiệu quả, nâng cao nghiên cứu khoa học và học tập gắn liền với thực hành để cọ sát với thực tế, thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Văn Quang. Phó Viện trưởng Viện Kinh tế TP. Hồ Chí Minh,
Hội nhập kinh tế quốc tế thách thức đối với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu và các nhu cầu xây dựng năng lực.
2. Trương Bá Thanh - Trần Đình Khôi Nguyên - Đại học Kinh tế Đà Nẵng, Đổi mới công tác đào tạo kế toán - kiểm toán trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
3. PGS.TS Vũ Hữu Đức Đại học mở TP. Hồ Chí Minh, Đào tạo kế toán Việt
Nam - Tiềm năng và thách thức.
SOLUTIONS TO IMPROVE THE QUALITY OF ACCOUNTING TRAINING ACTIVITIES IN UNIVERSITIES OF VIETNAM
Master. TRAN THU NGA
Faculty of Accounting, University of Economic and Technical Industries
ABSTRACT:
The quality of training is an important issue of universities in Vietnam. Vietnamese economy is growing rapidly, hence, it is necessary for Vietnam to have a skilled and sufficient accounting workforce. This urgent task is only sloved by improving the quality of accounting training activities at universities in order to meet requirements of employers.
Keywords: Quality of training, accounting sector, university.