Giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam hướng đến mục tiêu năm 2030

Bài báo Giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam hướng đến mục tiêu năm 2030 do Tạ Kim Sen (Khoa Lý luận chính trị và pháp luật - Trường Đại học Điện lực) thực hiện.

TÓM TẮT:

Phát triển kinh tế biển là một trong những chiến lược quan trọng của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững, nâng cao vị trí quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia biển mạnh, với kinh tế biển đóng góp khoảng 30-35% GDP cả nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, cần có các giải pháp toàn diện từ chính sách, khoa học - công nghệ, quản lý tài nguyên đến bảo vệ môi trường biển. Bài viết này phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế biển bền vững, đảm bảo an ninh quốc gia và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đến năm 2030.

Từ khóa: kinh tế biển, phát triển bền vững, tài nguyên biển, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, chính sách phát triển.

1. Đặt vấn đề

Biển và đại dương không chỉ cung cấp tài nguyên thiên nhiên phong phú mà còn đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nền kinh tế biển toàn cầu mang lại giá trị ước tính khoảng 3.000 tỷ USD mỗi năm, đóng góp vào 5% GDP toàn cầu.

Nước ta có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đường bờ biển dài khoảng 3.260km; với hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn nhỏ, trong đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược rất quan trọng; các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia rộng hơn 1 triệu km(trải dài trên 28 tỉnh, thành phố ven biển). 

Trong những năm qua, Việt Nam đã khai thác tiềm năng kinh tế biển với nhiều ngành mũi nhọn như khai thác và nuôi trồng thủy sản, dầu khí, vận chuyển hàng hải, du lịch biển và năng lượng tái tạo. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sau 5 năm thực hiện Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển theo Nghị quyết 36 của Trung ương và Chương trình hành động của Chính phủ, GRDP của 28 tỉnh/thành phố ven biển theo giá hiện hành năm 2022 đạt mức 4.786 nghìn tỷ đồng, chiếm 49,8% GDP cả nước. GRDP bình quân đầu người của các tỉnh ven biển năm 2022 đạt 97,2 triệu đồng, cao hơn bình quân cả nước (96,6 triệu đồng).

Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế biển của Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm ô nhiễm môi trường biển, biến đổi khí hậu và tranh chấp chủ quyền trên biển. Do đó, để kinh tế biển phát triển bền vững, cần có chiến lược khai thác hợp lý, bảo vệ tài nguyên và ứng dụng công nghệ hiện đại, cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.

2. Thách thức khi Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển đến năm 2030

2.1. Mục tiêu phát triển kinh tế biển đến năm 2030

Theo Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, quá trình phát triển kinh tế biển đạt các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Về kinh tế biển, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Về xã hội, chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...

Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển, cần tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao.

Về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cần đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.

Đồng thời ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương.

Bên cạnh đó, phải quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

2.2. Thách thức khi thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển đến năm 2030

Trong quá trình phát triển kinh tế biển hướng đến mục tiêu năm 2030, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn.

Một là khai thác tài nguyên biển quá mức. Một trong những vấn đề đáng lo ngại là việc khai thác tài nguyên biển quá mức, đặc biệt trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản và khai thác dầu khí. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 9.547 nghìn tấn, tăng 2,5% so với năm trước và tăng 37,9% so với năm 2016, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5.721,6 nghìn tấn, tăng 4,0% và tăng 56,3%. (Xem Hình)

Hình: Sản lượng thủy sản giai đoạn từ năm 2016 - 2024

                                                                                                                       Nghìn tấn

Description: A table with numbers and a few black text

AI-generated content may be incorrect.

                                                                                       Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2024

Những con số thể hiện trong Hình trên cho thấy sản lượng khai thác đã vượt ngưỡng an toàn sinh thái. Việc đánh bắt quá mức đã làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là các loài cá có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, cá thu và tôm hùm. Ngoài ra, việc khai thác dầu khí ngoài khơi cũng đối mặt với nhiều vấn đề. Theo báo cáo Kết quả thăm dò và khai thác năm 2023 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), sản lượng khai thác dầu thô của Việt Nam đã giảm từ 18 triệu tấn năm 2015 xuống còn 8,63 triệu tấn. Tổng sản lượng khai thác dầu khí đạt 10,41 triệu tấn vượt 12,1% kế hoạch; khai thác khí đạt 7,44 tỉ m3 khí, vượt 6,1% so với kế hoạch, cho thấy sự cạn kiệt dần của các mỏ dầu hiện hữu. Nếu không có chiến lược khai thác bền vững và đầu tư vào công nghệ khai thác mới, Việt Nam sẽ gặp khó khăn lớn trong việc duy trì nguồn tài nguyên dầu khí phục vụ phát triển kinh tế.

Hai là ô nhiễm môi trường biển. Sự gia tăng các hoạt động công nghiệp ven biển và hoạt động du lịch đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm, Việt Nam thải ra khoảng 1,8 triệu tấn rác nhựa, trong đó một lượng lớn trôi ra biển, khiến Việt Nam trở thành một trong năm quốc gia xả rác thải nhựa nhiều nhất thế giới. Ô nhiễm nhựa không chỉ đe dọa các hệ sinh thái biển, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.

Ngoài ra, các khu công nghiệp ven biển và các nhà máy chế biến thủy sản cũng là nguồn thải lớn gây ô nhiễm nước biển. Một số vụ việc nghiêm trọng như sự cố môi trường biển do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra năm 2016 đã làm chết hàng loạt sinh vật biển, ảnh hưởng đến hàng chục nghìn hộ dân ven biển miền Trung. Điều này cho thấy dù đã có nhiều biện pháp khắc phục, nhưng tình trạng ô nhiễm nước biển do hoạt động công nghiệp vẫn chưa được kiểm soát triệt để.

Ba là hạ tầng và công nghệ còn hạn chế. Mặc dù kinh tế biển đang phát triển, nhưng hạ tầng phục vụ cho các ngành công nghiệp biển như cảng biển, logistics, công nghệ khai thác và nuôi trồng thủy sản còn nhiều hạn chế. Theo Quyết định số 1490/QĐ-BGTVT ngày 15/11/2023 công bố danh mục bến cảng thuộc cảng biển Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải công bố cả nước có 296 bến cảng, với 34 tỉnh, thành phố trong cả nước có cảng, bến cảng, nhưng chỉ có một số ít cảng nước sâu đạt tiêu chuẩn quốc tế, gây khó khăn cho việc phát triển logistics và xuất khẩu hàng hóa qua đường biển.

Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, phần lớn các cơ sở sản xuất vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, khiến năng suất và chất lượng sản phẩm không cao. Theo tổng hợp số liệu của Tổng cục Thủy sản tại Hội nghị Phát triển ngành tôm năm 2023, chỉ khoảng 20% diện tích nuôi tôm tại Việt Nam áp dụng công nghệ tiên tiến, trong khi các nước trong khu vực như Thái Lan và Indonesia đã đạt tỷ lệ trên 50%. Điều này đặt ra thách thức lớn cho ngành Thủy sản Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Bốn là vấn đề về nhân lực và quản lý nhà nước. Nguồn nhân lực phục vụ cho ngành kinh tế biển chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ và kỹ năng, đặc biệt là trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như công nghiệp đóng tàu, logistics và khai thác biển sâu. Theo Báo cáo về tình hình thị trường lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2022, chỉ có khoảng 30% lao động trong lĩnh vực kinh tế biển được đào tạo bài bản, trong khi phần lớn lao động còn thiếu kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành. Báo cáo Dự báo kỹ năng ngành Cảng biển Việt Nam giai đoạn 2024 - 2028, cho thấy nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp cảng biển, nhất là khối lao động trực tiếp, luôn trong tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng. Trong đó, các vị trí khó tuyển dụng nhân sự là điều khiển phương tiện, thiết bị (cẩu quay, cẩu khung, xe đầu kéo); khai thác, kỹ thuật, bốc xếp (giám định sửa chữa, vệ sinh, bảo trì thiết bị xếp dỡ container)… Nhiều doanh nghiệp cho biết lý do thiếu hụt nhân lực là do ứng viên ít, lại thiếu kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng chuyên môn; thiếu chứng chỉ nghề chuyên ngành; ít cơ sở giáo dục đào tạo ngành cảng biển...

Với những thách thức trên, Việt Nam cần có những chiến lược cụ thể và đồng bộ để phát triển kinh tế biển bền vững trong giai đoạn tới, nhằm đạt được mục tiêu năm 2030.

3. Một số giải pháp khắc phục những thách thức khi thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển đến năm 2030

Để phát triển kinh tế biển bền vững, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những hạn chế về khai thác tài nguyên, ô nhiễm môi trường, hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực.

Trước tiên, Việt Nam cần quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác tài nguyên biển. Việc thiết lập hạn ngạch đánh bắt thủy sản hợp lý, áp dụng công nghệ tiên tiến vào nuôi trồng biển và tăng cường tuần tra, giám sát các hoạt động khai thác trái phép sẽ giúp bảo vệ nguồn lợi hải sản. Trong lĩnh vực khai thác dầu khí, cần đầu tư vào công nghệ thăm dò, khai thác hiệu quả hơn, đồng thời nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng thay thế như điện gió và điện mặt trời ngoài khơi.

Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường biển cần được kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhà nước cần có chính sách nghiêm ngặt để giảm lượng rác thải nhựa ra đại dương, nâng cao ý thức cộng đồng và doanh nghiệp về xử lý chất thải. Các khu công nghiệp ven biển phải tuân thủ các tiêu chuẩn xả thải nghiêm ngặt, đồng thời áp dụng công nghệ xử lý nước thải tiên tiến để giảm thiểu ô nhiễm.

Hạ tầng và công nghệ trong lĩnh vực kinh tế biển cũng cần được cải thiện đáng kể. Việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cảng biển nước sâu, phát triển dịch vụ logistics hàng hải hiện đại sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong ngành Nuôi trồng thủy sản, cần khuyến khích sử dụng công nghệ cao nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đặc biệt là trong nuôi tôm và cá tra - hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực.

Cuối cùng, để đảm bảo sự phát triển bền vững, Việt Nam cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Kinh tế biển. Việc mở rộng chương trình đào tạo nghề, hợp tác với các nước tiên tiến để nâng cao trình độ chuyên môn cho lao động biển sẽ giúp Việt Nam không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn đảm bảo nguồn nhân lực sẵn sàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đồng thời, hệ thống quản lý nhà nước cần được cải cách để giảm chồng chéo trong chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân phát triển kinh tế biển một cách bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
  2. Tổng cục Thống kê (2024), Sản lượng khai thác thủy sản giai đoạn 2016 - 2024.
  3. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN (2023), Báo cáo Kết quả thăm dò và khai thác năm 2023
  4. Bộ Giao thông Vận tải (2023), Quyết định số 1490/QĐ-BGTVT công bố danh mục bến cảng thuộc cảng biển Việt Nam.
  5. Tổng cục Thủy sản (2023), Tham luận tại Hội nghị Phát triển ngành Tôm năm 2023.
  6. LIRC (2023), Báo cáo Dự báo kỹ năng ngành Cảng biển Việt Nam giai đoạn 2024 - 2028.
  7. Bộ Tài nguyên và Môi trường Báo cáo sau 5 năm thực hiện Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển theo Nghị quyết 36 của Trung ương và Chương trình hành động của Chính phủ,
  8. Hội đồng Tư vấn kỹ năng nghề ngành Logistics - LIRC (2020), Báo cáo Dự báo kỹ năng nghề ngành Logistics 2021-2023.
  9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Báo cáo tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2022.

Solutions for advancing Vietnam’s marine economy towards the 2030 goals

Ta Kim Sen

Faculty of Political Theory and Law, Electric Power University

Abstract:

The development of the marine economy is a key strategic priority for Vietnam, aimed at fostering sustainable growth and strengthening the country's regional and global standing. By 2030, Vietnam aspires to become a leading maritime nation, with the marine economy contributing 30 - 35% of its GDP. Achieving this objective requires a comprehensive approach encompassing policy reform, advancements in science and technology, effective resource management, and robust marine environmental protection. This study examines the current state of Vietnam’s marine economy and proposes solutions to ensure sustainable development, enhance national security, and drive economic growth toward the 2030 target.

Keywords: marine economy, sustainable development, marine resources, climate change, environmental pollution, development policy.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 6 tháng 2 năm 2025]

Tạp chí Công Thương