Giải pháp tăng trưởng xanh trong lĩnh vực năng lượng của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2025-2030

Bài báo Giải pháp tăng trưởng xanh trong lĩnh vực năng lượng của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2025-2030 do Ngô Ánh Tuyết1 - Nguyễn Thị Như Vân1 - Nguyễn Thị Lê Na1 (1Khoa Quản lý công nghiệp và năng lượng, Trường Đại học Điện lực) thực hiện.

TÓM TẮT:

Bài báo đề cập đến sự cần thiết của tăng trưởng kinh tế xanh, phát triển kinh tế bền vững ở các cấp độ khu vực, địa phương, quốc gia nhằm hướng tới mục tiêu thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ về giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị COP26. Đà Nẵng là một trong 5 thành phố lớn trực thuộc Trung ương và là trung tâm kinh tế lớn nhất khu vực Trung Trung Bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Cùng chung xu thế tăng trưởng kinh tế - xã hội - môi trường trong kỷ nguyên phát triển xanh, Đà Nẵng đã có nhiều chủ trương xanh hóa trong nhiều lĩnh vực, trong đó năng lượng là một trọng điểm quan trọng trong chiến lược và kế hoạch tăng trưởng xanh của thành phố. Bài báo phân tích hiện trạng ngành Năng lượng, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và đưa ra một số hướng giải pháp tăng trưởng xanh đối với lĩnh vực năng lượng của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2025-2030.

Từ khóa: tăng trưởng xanh, thành phố Đà Nẵng, lĩnh vực năng lượng, giai đoạn 2025-2030.

1. Đặt vấn đề

Tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn đang là xu hướng không thể đảo chiều ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Chiến lược TTX và KHHĐ TTX quốc gia của Việt Nam (Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 và Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022) đã được ban hành và triển khai. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) cũng đã ban hành Tài liệu (Quyết định số 600/QĐ-BKHĐT ngày 07/04/2023) hướng dẫn xây dựng KHHĐ TTX và tích hợp TTX vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH các cấp làm cơ sở để các bộ, ngành và địa phương triển khai.

Chuyển đổi xanh được xem là quan điểm phát triển trong Quy hoạch Tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Quốc hội khóa XV, từ đó, nhiều định hướng phát triển được đưa ra liên quan đến kinh tế xanh, phát triển bền vững (PTBV), phát triển vùng theo hướng xanh… Tiếp đó, Kế hoạch của Quốc hội khóa XV về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, cũng xác định nhiệm vụ trọng tâm là cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững… Ở cấp độ địa phương, một số nơi cũng đã ban hành KHHĐ TTX hoặc các văn bản chỉ đạo thực hiện và tích hợp TTX (Tỉnh Bến Tre, Nghệ An, Bắc Giang,…).    

Cùng với cả nước trong hoạt động triển khai Chiến lược TTX giai đoạn 2020-2030, thành phố Đà Nẵng cũng cần tiến hành xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ TTX gắn liền với xu hướng mới. Đà Nẵng đang xây dựng các chính sách và triển khai các giải pháp tăng trưởng kinh tế xanh mang tính tổng thể và dài hạn trên cơ sở kế thừa các kế hoạch sẵn có và cập nhật thực trạng, tình hình mới, xu thế tương lai, định vị thành phố trong kế hoạch TTX quốc gia ở lĩnh vực năng lượng như phát triển NLTT (điện mặt trời mái nhà, điện rác,…), tăng cường sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, v..v..

2. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội - môi trường của thành phố Đà Nẵng

Đà Nẵng là thành phố trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, có tổng diện tích 1.284,73 km2 và dân số 1,17 triệu người. Đà Nẵng có vị trí chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng quan trọng của quốc gia, đứng thứ 6/63 tỉnh thành trực thuộc Trung ương về tốc độ phát triển kinh tế, là trung tâm phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của miền Trung và có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xanh, bền vững.

Về kinh tế, tốc độ tăng GRDP hàng năm của Đà Nẵng theo giá so sánh giai đoạn từ năm 2015 đến 2019 luôn đạt mức trên 7%, riêng năm 2020 chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, năm 2021 có sự tăng trở lại nhưng vẫn ở mức thấp so với thời kỳ trước đó. (Hình 1)

Hình 1: Tốc độ tăng GRDP hàng năm theo giá so sánh của Đà Nằng giai đoạn 2015-2019

Cơ cấu trong quy mô nền kinh tế của Đà Nẵng tập trung nhiều vào các ngành dịch vụ, chiếm tới hơn 70% trong nhiều năm, tiếp đó là ngành công nghiệp, xây dựng, nông lâm thủy sản (NLTS). (Hình 2)

Hình 2: Cơ cấu GRDP theo các lĩnh vực kinh tế của Đà Nẵng năm 2015 và 2021

Về xã hội, cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng với tỷ trọng chính là ngành dịch vụ, sau đó là công nghiệp, do đó cơ hội TTX và lợi thế cạnh tranh tập trung vào dịch vụ môi trường, nông nghiệp hữu cơ, thủy sản và lâm nghiệp bền vững, giao thông công cộng, công nghiệp sạch, du lịch sinh thái… Các tác động lớn trong quá trình chuyển dịch xanh đến các lĩnh vực như đầu tư - việc làm, giá cả - thất nghiệp, văn hóa, lối sống, phân bố nguồn lực - rủi ro của thị trường - mạng lưới an sinh xã hội... cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và có giải pháp tốt và đồng bộ hơn. 

Về môi trường, Đà Nẵng là thành phố biển ở khu vực Bắc Trung Bộ, địa hình khá đa dạng với đồng bằng, núi và biển. Tài nguyên đất với diện tích rừng tự nhiên lớn, độ che phủ rừng cao trên 47%, tài nguyên nước khá dồi dào (sông, hồ, suối), tài nguyên khoáng sản nhiều loại, đặc biệt khoáng sản vật liệu thông thường,... Các nguồn tài nguyên này đang chịu sức ép về ô nhiễm và suy thoái từ gia tăng dân số, di dân thành thị, phát triển kinh tế của các ngành năng lượng, công nghiệp, giao thông,...

Trong lĩnh vực năng lượng, việc chuyển dịch theo hướng TTX cũng được lãnh đạo thành phố đặc biệt quan tâm. Đà Nẵng sẽ tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng này trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 9,17% vào năm 2025; đạt 9,69% vào năm 2035 [2]. Để đạt mục tiêu, Đà Nẵng khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển các dự án năng lượng; bố trí nguồn lực hợp lý cho nghiên cứu công nghệ NLTT; xây dựng dữ liệu năng lượng tái tạo cho mục đích dài hạn; kêu gọi đầu tư các dự án về sản xuất công nghệ NLTT.

3. Thực trạng phát triển lĩnh vực năng lượng trong bối cảnh tăng trưởng xanh của thành phố Đà Nẵng

Đà Nẵng có tiềm năng khá lớn để phát triển điện năng lượng mặt trời và năng lượng sóng, với số giờ nắng trung bình 2.100 giờ/năm, cường độ bức xạ trung bình 4,89 kWh/m2/ngày, năng lượng sóng lớn nhất khoảng từ 50 đến 60kW ở một số thời gian trong năm. Đà Nẵng được đánh giá là trung tâm khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo, có chất lượng lao động cao và liên tục được cải thiện, điều kiện thuận lợi để phát triển việc làm xanh và nghiên cứu, ứng dụng đổi mới sáng tạo cho TTX.

3.1. Hiện trạng tiêu thụ năng lượng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Với lợi thế về vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, cơ cấu ngành chủ đạo của Đà Nẵng là thương mại dịch vụ phát triển vượt bậc. Hiện nay các hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ bao gồm ăn uống, lưu trú, du lịch, mua sắm,… Các dạng năng lượng chính được sử dụng cho các hoạt động dịch vụ gồm DO, LPG, xăng, điện, trong đó điện là dạng năng lượng chủ yếu. Năng lượng tiêu thụ trong lĩnh vực thương mại năm 2019 đạt khoảng 6.025 TOE, năm 2021 tăng lên 8.707 TOE. (Bảng 1)

Bảng 1. Năng lượng tiêu thụ theo lĩnh vực kinh tế của Đà Nẵng (Đơn vị: TOE)

             Nguồn: Tổng hợp từ số liệu (tạm tính) theo báo cáo doanh nghiệp gửi BCT

Công nghiệp - Xây dựng là ngành có mức tiêu thụ năng lượng lớn nhất trong tổng nhu cầu năng lượng của thành phố. Theo báo cáo hàng năm của các doanh nghiệp trọng điểm gửi Bộ Công Thương, các dạng năng lượng chính dùng cho sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp bao gồm than cốc, than cám, than cục, dầu DO, FO, khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG), xăng, gỗ/trấu, nhiệt (hơi), điện. Sơ bộ thống kê năng lượng tiêu thụ của các đơn vị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố theo Bảng 2.

Bảng 2. Các dạng năng lượng tiêu thụ của lĩnh vực công nghiệp trên thành phố Đà Nẵng

 

 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu (tạm tính) theo báo cáo doanh nghiệp gửi BCT

Nhìn chung, tổng năng lượng tiêu thụ ngành Công nghiệp tăng đều hàng năm. Riêng năm 2020 do dịch bệnh Covid-19, rất nhiều các cơ sở sản xuất phải đóng cửa hoặc giảm sản lượng, do đó nhu cầu năng lượng cũng giảm nhưng xu hướng tăng lại vào năm 2021. Đặc biệt, năm 2021 cho thấy sự góp mặt của một số dạng NL mới, NLTT như Gỗ/trấu, Điện tự sản xuất (điện mặt trời áp mái) cùng với sự gia tăng của một số dạng NL truyền thống như than, LPG, điện. Mặc dù vẫn có sự gia tăng về than do nhu cầu gia tăng của ngành Công nghiệp nhưng cũng đã có sự suy giảm khá nhiều của DO, FO.

Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp, các dạng năng lượng được sử dụng gồm điện cho máy bơm, xăng và dầu cho khâu làm đất, thu hoạch và các hoạt động khác. Ngành Thủy sản dùng năng lượng chủ yếu cho hoạt động đánh bắt cá. Giai đoạn 2019 - 2020, mức độ sử dụng năng lượng lĩnh vực này khoảng 20 kTOE mỗi năm, trong đó tiêu thụ dầu diesel, xăng, tập trung chính ở khai thác thủy sản. Năm 2021, lượng tiêu thụ nhiên liệu ước tính giảm còn khoảng 18.5 kTOE do sản lượng khai thác thủy sản sụt giảm mạnh.

Trong lĩnh vực giao thông vận tải, ước tính sơ bộ theo báo cáo doanh nghiệp, tính chung toàn ngành (bao gồm hoạt động dịch vụ hỗ trợ hàng không và vận tải đường bộ khác), tiêu thụ năng lượng dùng trong ngành Giao thông tập trung vào một số dạng năng lượng chính như DO, LPG, xăng, điện. Mức độ tiêu thụ năng lượng vào năm 2020 ước tính khoảng 1,328 TOE và năm 2021 là 2,210 TOE.

3.2. Hiện trạng cung ứng và sản xuất năng lượng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Hiện nay, Đà Nẵng không có công trình nhà máy thủy điện, nhiệt điện, điện mặt trời, điện gió sản xuất điện năng mà chỉ có điện áp mái và một số dự án nguồn điện năng lượng tái tạo. Đến tháng 6/2023, Đà Nẵng có tổng công suất lắp đặt điện mặt trời mái nhà đạt 81.64 MWp với 2,513 khách hàng.

Giai đoạn 2011-2020, mức tăng điện thương phẩm đạt bình quân 7.51%/năm, trong đó giai đoạn 2016-2020 giảm nhiều so với giai đoạn 2011-2015 (từ 11.51% giảm còn 3.65%). Những năm cuối giai đoạn này, tình hình phát triển kinh tế của TP gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19 nên các chỉ tiêu phát triển phụ tải và tiêu thụ điện đạt thấp hơn so với chỉ tiêu quy hoạch. 

Mặc dù phát triển điện thương phẩm của TP năm 2015 đạt 84.5% so với quy hoạch nhưng vẫn tương đối khả quan khi nền kinh tế thành phố phát triển không như mức dự báo. Chỉ tiêu này còn thấp hơn nhiều (đạt 67.7% so với quy hoạch) trong giai đoạn 2016-2020 do sản lượng điện giảm mạnh vào năm 2020. Một điều đáng khích lệ là tổn thất điện năng trên lưới điện giảm dần qua các năm từ 4.23% (năm 2010) đến 2.35% (năm 2020).

Các dự án nhà máy sản xuất điện từ các nguồn NLTT trên địa bàn TP. Đà Nẵng như sau:

Các nhà máy điện sinh khối: Nhà máy đồng phát nhiệt điện 15MW (KCN Liên Chiểu) [5].

Các nhà máy điện mặt trời: Nguồn cấp điện tiềm năng từ NL mặt trời mái nhà là 1138 MW [5]. Theo kế hoạch triển khai QH điện VIII, giai đoạn 2023-2030 Đà Nẵng sẽ bổ sung 30MW, hiện tại mới có dự án điện mặt trời Khánh Sơn 5MW trong danh mục được nghiên cứu đầu tư.

Các nhà máy điện gió: Nguồn cấp điện tiềm năng của thành phố Đà Nẵng từ điện gió gần bờ và ngoài khơi là 500 MW [5], tuy nhiên QH điện VIII không có điện gió. 

Các nhà máy thủy điện nhỏ: Xem xét phát triển theo các mô hình thủy điện vừa và nhỏ tiên tiến trên thế giới trên cơ sở phải đảm bảo môi trường, bảo vệ nguồn nước, sản xuất nông nghiệp, an ninh, quốc phòng [2], tuy nhiên QH điện VIII thành phố Đà Nẵng không có thủy điện nhỏ.

Các nhà máy điện sử dụng chất thải rắn: Dự án nhà máy đốt chất thải rắn phát điện tại bãi rác Khánh Sơn với quy mô 650 tấn/ngày đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung vào Quy hoạch điện VII điều chỉnh. Quy mô công suất phát điện của Nhà máy là 18MW. Hiện nay, dự án này đang thực hiện điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư.

Đà Nẵng đánh giá tiềm năng kỹ thuật về NLTT khá lớn, nhưng trong Qui hoạch Điện VIII được xác nhận không nhiều, phù hợp với sự phát triển NL chung của quốc gia và hài hòa với các khu vực khác. Có thể thấy, tiềm năng đạt các mục tiêu TTX của thành phố trong lĩnh vực NL còn khá nhiều, do đó cần tăng cường các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển một số nguồn NLTT tiềm năng của thành phố. 

4. Giải pháp và định hướng tăng trưởng xanh lĩnh vực năng lượng cho thành phố Đà Nẵng

4.1. Mục tiêu trong phát triển năng lượng

Mục tiêu cơ bản về phát triển NLTT, NL mới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng [2]: (Bảng 3)

Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trên địa bàn, ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch.

Triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng.

Tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong tổng cung năng lượng sơ cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đạt khoảng 9.71% vào năm 2025; đạt 9.69% vào năm 2035.

Bảng 3. Mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo trên thành phố Đà Nẵng

 

*17.76% tiềm năng kỹ thuật, **42.13% tiềm năng kỹ thuật.

Nguồn: Tổng hợp từ quyết định số 1737/ QĐ-UBND ngày 20/5/2021

Ngoài các mục tiêu liên quan đến phát triển NL, các mục tiêu về sử dụng NL tiết kiệm hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế hay các mục tiêu khác liên quan đến công nghệ của các dạng NL mới, NLTT khác cũng đã được UBND thành phố quan tâm và ban hành.

4.2. Định hướng, giải pháp phát triển theo xu thế tăng trưởng xanh

Theo Quy hoạch phát triển thành phố Đà Nẵng 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, các mục tiêu cụ thể chưa nhắc đến lĩnh vực năng lượng, do đó các nhiệm vụ và giải pháp cho phát triển năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh của thành phố đều chưa cụ thể và rõ ràng. Định hướng phát triển năng lượng chung cần bám sát định hướng và mục tiêu của quốc gia ở hai góc độ: (1) Thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu cung cấp và tiêu thụ năng lượng theo hướng tận dụng tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo tại địa phương, góp phần vào mục tiêu tăng tỷ trọng NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp và tăng trưởng kinh tế xanh. (2) Khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Một số giải pháp định hướng và nhiệm vụ có liên quan đến các mục tiêu tăng trưởng xanh có thể xem xét như sau:

Hoàn thiện cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo tại địa phương; Xây dựng các chương trình ưu đãi theo quy định nhằm thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án NLTT, phát triển các KCN sản xuất công nghệ NLTT; Phương án khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo gồm các nguồn NL mặt trời mái nhà, sinh khối, nguồn từ xử lý chất thải rắn, điện gió ngoài khơi… Đối với tiềm năng về NL mặt trời mặt đất, mặt trời mặt nước và điện khí sẽ nghiên cứu để phát triển theo nhu cầu phụ tải và điều kiện thực tế phù hợp. 

Đẩy mạnh đầu tư xây dựng nâng cấp, phát triển mới lưới điện cao thế, trung thế và hạ thế phù hợp với quy hoạch để kết nối với các nguồn năng lượng mới; có phương án cấp điện cho hệ thống LRT và MRT từ mạng lưới các trạm biến áp phân phối của từng khu vực cho các tuyến tàu điện, đường sắt tùy nhu cầu cụ thể. Nghiên cứu các giải pháp lưới điện thông minh tích hợp các nguồn điện phân tán nhằm khai thác hiệu quả công suất nguồn NLTT tại địa phương; khuyến khích đầu tư phát triển trạm sạc ô tô điện theo hướng xã hội hóa.

Đầu tư mới hoặc chuyển đổi công nghệ của các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt sang công nghệ xử lý chất thải có kết hợp với thu hồi năng lượng, 

Ưu tiên áp dụng công nghệ có hiệu quả tối ưu về tiêu chí chất lượng môi trường, ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Tiếp tục triển khai các kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu tiết kiệm năng lượng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi lĩnh vực.

Tăng cường khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính xanh (ngân sách, tài trợ, vay ưu đãi…) nhằm thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

5. Kết luận

Chuyển dịch năng lượng xanh là xu thế tất yếu trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế xanh bền vững, tức là phát triển năng lượng phải gắn liền với các chính sách giảm phát thải nhằm bảo vệ môi trường, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Đà Nẵng với tiềm năng, lợi thế và chủ trương phát triển theo định hướng chung và riêng cần nhanh chóng triển khai thực hiện các giải pháp và nhiệm vụ TTX trong lĩnh vực năng lượng. Việc thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu TTX:

Về kinh tế: Tăng cường an ninh năng lượng, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và quốc gia; Tiết kiệm chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp thông qua các dự án tiết kiệm năng lượng

Về xã hội: Các dự án về NLTT góp phần tạo việc làm mới cho địa phương; Nâng cao trình độ và tăng thu nhập cho lao động địa phương

Về môi trường: Giảm phát thải KNK do khai thác và sử dụng hiệu quả năng lượng

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Quyết định số 104/QĐ-UBND ngày 12 tháng 01 năm 2021 của UBND thành phố Đà Nẵng về Đề án Phát triển điện mặt trời trên mái nhà đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.

Quyết định số 1737/QĐ-UBND ngày 20/05/2021 của UBND thành phố Đà Nẵng về Đề án Phát triển sử dụng NLTT, năng lượng mới trên địa bàn TP. Đà Nẵng đến 2025, tầm nhìn đến 2035.

Quyết định số 150/KH-UBND của UBND thành phố Đà Nẵng ngày 06 tháng 8 năm 2021 về Kế hoạch tăng cường tiết kiệm điện giai đoạn 2021 - 2025.

Quyết định số 154/KH-UBND của UBND thành phố Đà Nẵng ngày 31 tháng 7 năm 2021 về Kế hoạch tăng cường tiết kiệm điện giai đoạn 2023 - 2025 và các năm tiếp theo.

Quy025 và csố 1287/QĐ-TTg ngày 2/11/2023 Phê duyệt Qui hoduyệTP Đà Nyệt th Đà Nyệt Qngày , tĐà Nyệt Qngày 20.

Green growth solutions for Da Nang City’s the energy sector in the period 2025 - 2030

Ngo Anh Tuyet1

 Nguyen Thi Nhu Van1

Nguyen Thi Le Na1

1Faculty of Industrial and Energy Management, Electric Power University

Abstract:

This study highlights the necessity of promoting green economic growth and sustainable development at regional, local, and national levels, in alignment with the Vietnamese Prime Minister’s commitment to achieving net-zero emissions by 2050 as pledged at the COP26 Conference. As one of Vietnam’s five centrally governed cities and the leading economic hub of the Central, South Central, and Central Highlands regions, Da Nang has embraced the global shift toward sustainable development. In this context, the city has implemented a range of green policies across multiple sectors, with the energy sector being a key priority in its green growth strategy. This study analyzes the current status of Da Nang’s energy sector, evaluates its strengths, weaknesses, opportunities, and challenges (SWOT analysis), and proposes a set of strategic solutions to foster green growth in the energy sector for the 2025 - 2030 period.

Keywords: green growth, Da Nang City, energy sector, the 2025–2030 period.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 12 năm 2025]

Tạp chí Công Thương