Trong khi sự giáo dục của chúng ta lại quá chú trọng đến cái 15% đó mà không hề coi trong cái 85% kia”. Nên chăng, các nhà giáo dục Việt Nam cũng cần phải “giật mình” nhìn lại và quan tâm đến vấn đề này một cách đúng đắn để sản phẩm giáo dục khi “ra lò” ngày một hoàn thiện hơn, không bị tụt hậu so với thế giới từ 15-20 năm như chính Bộ Giáo dục- Đào tạo Việt Nam đã từng thừa nhận.
Các cấp bậc học khác nhau ở điểm nào?
Mỗi một cấp bậc học từ tiểu học (TH), trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT), cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH), sau đại học (SĐH) đều giống nhau một từ là đến trường để học. Song mục đích của việc học tập ở mỗi một cấp học là hoàn toàn khác nhau. Có thể tạm phân như sau, giai đoạn từ TH đến hết PTTH là giai đoạn người học cần phải tiếp thu kiến thức nhiều nhất, còn giai đoạn lên ĐH và SĐH thì ngoài việc nâng cao kiến thức, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, người học cần phải hoàn thiện con người về mọi mặt để trở thành một người “vừa hồng vừa chuyên” như Bác Hồ từng nói. Nhưng một thực tế hiện nay, hầu hết học sinh, sinh viên của ta đến trường vẫn chỉ lo làm sao để nhồi nhét kiến thức. Sở dĩ giai đoạn từ TH đến PTTH là giai đoạn học sinh cần phải tiếp thu kiến thức nhiều nhất là bởi lẽ các em hoàn toàn như một “tờ giấy trắng”, kiến thức về mọi mặt: Lịch sử, văn học, địa lý, khoa học, toán học, lý học… từ sơ đẳng nhất cho đến toàn diện, đều phải được trang bị đầy đủ, để các em có một hành trang tươm tất không bị thiếu hụt mảng nào trước khi bước vào cuộc sống sự nghiệp tương lai sau này.
Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, đòi hỏi người dạy và người học phải tìm ra bí quyết dạy và học tốt nhất để các em ghi nhớ một cách sâu sắc cả một khối kiến thức khổng lồ. Giai đoạn này nếu học sinh nào có chỉ số thông minh (IQ) cao hơn thì việc tiếp thu kiến thức sẽ dễ dàng và nhàn tản hơn. Ngược lại học sinh nào cùng chỉ số đó nhưng thấp hơn thì việc tiếp thu sẽ khó khăn hơn, lúc đó người học phải lấy “cần cù bù khả năng” mới có thể theo kịp các chương trình học. Một tài liệu nghiên cứu chỉ ra rằng, người có chỉ số IQ dưới 50 thì chỉ có thể đọc được khi lên lớp 3 hoặc lớp 4. Tuy nhiên họ không thể nào theo được các lớp học bình thường mà phải cần đến những chương trình đặc biệt. Người nào IQ đạt 50-70 thì họ khó có thể học hết bậc tiểu học. Còn người nào IQ 105- 115 thường có khả năng theo học CĐ và tốt nghiệp thuộc loại trung bình. Một điều đáng mừng là IQ của học sinh Việt Nam là khá cao. Theo điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý học Việt Nam, IQ trung bình của học sinh Việt Nam là 100,08 (lấy kết quả từ 8000 học sinh THCS và THPT ở Hà Nội, Thành phố HCM và Huế).
Đây cũng là điều kiện thuận lợi để học sinh Việt Nam theo học tốt các chương trình đào tạo trong nhà trường. Song một điều lưu ý là học giỏi, tiếp thu được nhiều kiến thức không đồng nghĩa là sau này sẽ trở thành người làm việc giỏi, hoặc trở thành người thành đạt trong cuộc sống.
Học ĐH và SĐH có thể trở thành người thành đạt?
Nhiều bậc phụ huynh ở vùng nông thôn, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, com cóp từng mớ rau con cá để dành tiền cho con vào ĐH, hy vọng sau này có một cuộc sống đổi đời. Phải chăng mục đích của việc học ĐH là muốn trở thành người thành đạt? Vậy muốn thành đạt, chúng ta cần phải học những gì?.
Học giả người Mỹ- Kinitxi nhận xét: “Sự thành công của một người chỉ có 15% dựa vào kỹ thuật chuyên ngành, còn 85% phải chịu vào những mối quan hệ giao tiếp và năng lực xử thế của người ấy”. Chứng minh cho ý kiến này là đa số những người thành đạt trong xã hội hầu như khi ngồi ở trường học họ chỉ xếp loại khá, những người luôn đứng nhất lớp về thành tích học tập thì thường vận dụng vào cuộc sống lại có nhiều hạn chế. Số là họ quá chuyên tâm vào kỹ năng chuyên môn mà quên đi yếu tố năng lực xã hội hay còn gọi là kỹ năng “mềm”. Thời gian gần đây, nhiều cơ quan doanh nghiệp Việt Nam thất vọng khi tuyển chọn các thủ khoa ở các trường ĐH. Họ đặt cõu hỏi “Dạy và học như thế nào?”. Nguyên nhân của việc dạy và học ở mỗi cấp bậc chưa được xỏc định đỳng hướng, đỳng mục đích, nờn hàng năm, cỏc trường CĐ và ĐH cho ra lò hàng loạt các sản phẩm giáo dục chưa đạt yêu cầu thực tiễn. Hầu hết sinh viên ra trường thường yếu về kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử và làm việc đồng đội... Các nhà tuyển dụng một là không tiếp nhận, hai là tiếp nhận thì phải đầu tư đào tạo lại để phù hợp với công việc của đơn vị mình.
Các nhà khoa học hiện nay cũng đưa ra một con số tương đương, IQ chỉ góp phần chừng 20% vào sự thành đạt cá nhân, còn lại là do các chỉ số thông minh khác như: Thông minh cảm xúc (EQ); thông minh xã hội (SQ); thông minh sáng tạo (CQ) và nhiều chỉ số thông minh khác nữa… Và càng ngày con người càng khẳng định EQ quan trọng hơn IQ vì “với IQ người ta tuyển chọn bạn, còn với EQ người ta đề bạt bạn”. Và những người thành đạt không phải là có IQ cao nhất mà là có EQ cao nhất. Hơn nữa việc học mới chỉ là bước chuẩn bị ban đầu, còn làm việc sau này mới là việc cả đời. Người có chỉ số EQ cao là người có khả năng chế ngự và kiểm soát cảm xúc, do đó họ dễ thích ứng với hoàn cảnh cuộc sống, luôn tìm được sự hoà hợp trong tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những người có chỉ số EQ thấp.
Đồng tác giả Đinh Viễn Trí và Đông Phương Tri (Trung Quốc) trong cuốn “Đạo làm người và tài xử thế” cũng nhấn mạnh: “Sự thành công của con người chỉ có 15% là dựa vào trình độ khoa học, chuyên môn nghiệp vụ, 85% là dựa vào sự giao tiếp của các mối quan hệ, tài ăn nói và bản lĩnh của người đó. Trong khi sự giáo dục của chúng ta lại quá chú trọng đến cái 15% đó mà không hề coi trọng cái 85% kia”.
Hiện nền giáo dục của Việt Nam cũng rơi vào tình trạng như thế. Nhất là ở bậc CĐ và ĐH, nơi mà sau 3- 4 năm đào tạo, các em phải là những người làm việc thực sự với những công việc cụ thể mà mình đã chọn. Nhưng với cách đào tạo và học tập không khác gì so với bậc học phổ thông kiểu “thày đọc trò chép”, thậm chí còn nhàn hơn bậc học phổ thông, không hiểu rằng các em sẽ vận dụng những kiến thức chuyên ngành vào công việc thực tế được bao nhiêu? Chưa kể đến việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh ở các cấp học hiện nay là hầu như chưa có khái niệm, chưa có bộ môn học nào chính thức do Bộ GD- ĐT quy định và áp dụng vào chương trình đào tạo. Trong khi tỷ lệ thành bại trong cuộc sống dựa vào năng lực chuyên môn như các chuyên gia tâm lý đã nói ở trên chỉ có 15- 20%, còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực giao tiếp và năng lực xã hội khác.
Nhiều trường học hiện nay, do nhu cầu tự phát, cũng đã ký với một số các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực giáo dục đào tạo kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phát triển con người… để áp dụng vào việc giảng dạy và học tập cho sinh viên.Tuy nhiên, mô hình đào tạo này ở các trường này cũng chỉ dừng lại ở các giờ học ngoại khoá, chưa coi trọng đúng mức. Năm học 2008-2009, Trường Cao đẳng Cộng Đồng ( số 18 Trung Kính, Yên Hoà, Cầu Giấy), Trường THPT Lương Thế Vinh, huyện Ba Vì, Hà Nội.. đã ký với Trung tâm Phát triển kỹ năng con người Tâm Việt để triển khai nội dung học tập cho học sinh các kỹ năng: giao tiếp, thuyết trình, tư duy, làm việc đồng đội, thay đổi bản thân để sống hạnh phúc và thành đạt… Theo lời lãnh đạo của THPT Lương Thế Vinh, thì việc triển khai nội dung học tập các kỹ năng này vào chương trình đào tạo chính khoá mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm.
Học ĐH thì như vậy, nhưng khi lên SĐH thì người học lại vấp phải những kiến thức chồng chéo. Còn nhớ những năm 2005- 2006 cả xã hội, nhất là ngành giáo dục dấy lên phong trào: Tìm giải pháp cho việc cải tổ nền giáo dục Việt Nam. Hàng loạt các hội thảo về giáo dục được tổ chức, trong đó đáng nhớ nhất là tại hội thảo “Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục ĐH” tổ chức vào hồi tháng 11 năm 2005, hầu hết các đại biểu đều cho rằng: 50% kiến thức đào tạo trong các trường ĐH là lãng phí. Ở cả 3 cấp học, CĐ, ĐH, SĐH vẫn đứng độc lập, chưa có tính kế thừa, nối tiếp từ cấp nọ sang cấp kia. Nhiều môn ở ĐH học rồi nhưng lên SĐH vẫn phải học lại làm cho người học mất quá nhiều thời gian. Các ý kiến này cũng đã đề xuất lên Bộ GD- ĐT phải xắp xếp lại để các cấp học có hiệu quả. Tuy nhiên, đến thời điểm này thì việc cải tổ nền giáo cũng chưa có tín hiệu nào đáng mừng.
Lời kết
Yếu kém về kiến thức cơ bản, hạn chế về thể lực và kỹ năng thực hành, kém cỏi trong giao tiếp ứng xử đã làm nhiều sinh viên bị loại khỏi các cuộc phỏng vấn du học, tuyển chọn, lao động...Nên chăng hệ thống giáo dục và đào tạo cần phải nhìn lại “lỗi” trong việc xây dựng nội dung chương trình dạy và học ở mỗi bậc học. Các nhà giáo dục Việt Nam cũng cần phân biệt, định hướng cho học sinh, sinh viên lối tư duy học tập phù hợp ở mỗi cấp học, tránh lãng phí thời gian, tiền bạc trong suốt một thời kỳ dài cắp sách đến trường để các em có nhiều cơ hội gặt hái thành công trong sự nghiệp tương lai của mình.