Nguyên liệu làm gốm đất nung ở đây là đất sét gan gà, được khai thác tại địa phương. Việc khai thác, chế biến đất gốm khá thô sơ, nhìn chung không mấy cải tiến so với thời cổ xưa ở nước ta. Trong kỹ thuật tạo dáng và tu chỉnh cốt gốm mộc, thợ gốm Cổ Đạm sử dụng bàn xoay và dùng đôi tay vuốt cốt gốm hết sức khéo léo. Tùy theo sản phẩm lớn hay nhỏ, người thợ ước tính mà lấy nấm đất sét đã luyện kỹ to hay bé để đặt lên bàn xoay, rồi dùng tay vuốt, uốn tạo mỗi loại sản phẩm theo ý muốn. Cốt gốm Cổ Đạm mịn mặt và độ dày vừa phải. Sau khi phơi khô, cốt gốm thường để trơn, không tráng men, mà chỉ nhúng qua “nước men” (nước bột đất lọc kỹ, loãng) để sản phẩm nung chín sẽ không bị thấm, rỉ nước.
Người thợ gốm Cổ Đạm dùng lò để nung gốm. Người ta xếp nhẹ nhàng gốm mộc vào lò và đốt lò bằng củi hoặc than bánh. Bằng kỹ thuật và kinh nghiệm lâu đời, các thợ lò thủ công ở đây cho ra những sản phẩm chín đều, đanh già, màu vàng sẫm hay nâu xám. Tuy là gốm đất nung, nhưng các sản phẩm ở đây có màu sắc độc đáo. Đó là màu lửa ráng chiều. Gõ vào sản phẩm thấy tiếng kêu đanh. Vậy là gốm đất nung Cổ Đạm đã tiến gần tới loại gốm sành.
Chất lượng gốm Cổ Đạm khá cao, nên được tiêu thụ mạnh ở khắp các vùng quê thuộc Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, có thể cạnh tranh với gốm Chợ Bộng (Nghệ An). Những năm 60 của thế kỷ XX trở về trước, mỗi năm, thợ Cổ Đạm bán được hàng vạn sản phẩm gốm các loại. Thời ấy, nồi đồng ít mà đắt, nồi nhôm chưa phát triển, nên dân ta dùng nồi đất nhiều. Ngày nay, sản phẩm đun nấu bằng nhôm nhiều, nên nồi đất dường như mất dần thị trường tiêu thụ và vai trò xã hội của nó không còn được như xưa. Làng nồi đất Cổ Đạm một thời hoàng kim, đã buộc phải thu hẹp qui mô sản xuất. Từ mấy chục hộ gốm trước đây, nay chỉ còn vài nhà làm gốm. Mỗi gia đình này cũng chỉ đốt mỗi năm dăm ba lò, sản xuất cầm chừng. Sản phẩm nồi, ấm đất còn bán được quanh vùng, nhưng chậm, với số lượng ít. Nhu cầu đồ gốm đất nung vấn còn, bởi nhân dân địa phương bây giờ vẫn thích uống nước chè xanh nấu trong các vùa hầm trấu, có vị thơm ngon đặc biệt; thích món khoai lang luộc trong nồi đất, chắt nước rồi vùi rơm trấu, khoai chảy mật, vị thơm ngọt lạ lùng; thích siêu (ấm đất) sắc thuốc Bắc giữ được mùi vị thuốc hơn hẳn siêu bằng kim loại.v.v...
Tuy vậy, giữ nghề “nồi đất” là rất cần, nhưng chưa đủ. Thợ gốm Cổ Đạm cũng như thợ gốm các nơi trong nước quan niệm làm gốm trước hết là để sống, để phát triển. Cái nồi đất đang lỗi thời, phải biết cách chuyển sang loại sản phẩm bằng gốm khác. Song, thợ gốm Cổ Đạm chậm có sự chuyển đổi ấy. Thế là, nhiều thợ gốm đất nung trong làng không trụ nổi, đã giải nghệ và không ít thợ lâu năm trở thành người bán thất nghiệp. Lớp trẻ trong làng không theo nghề của cha ông để lại. Bức tranh làng nghề nồi đất trên đất văn hiến Nghi Xuân nay thật ảm đạm. Vẫn biết rằng, phần lớn các làng gốm đất nung, gốm sành, gốm đỏ ở nước ta hiện nay trong tình cảnh “lạc đường” như thế. Nhưng cứ như vậy thì khi sản phẩm đã lỗi thời, hẳn người dân làng nghề sẽ phải “tử vì nghề”! Thiết nghĩ, có lẽ, thợ gốm Cổ Đạm trước hết hãy giữ lấy làng nghề của mình, bảo tồn một nghề quý của quê hương, với kinh nghiệm từ xưa mà cha ông truyền lại, tiếp đó, cần mạnh dạn học hỏi và nhanh chóng làm các loại gốm mới, mẫu mã mới, tức là sản xuất “cái mà người ta cần, chứ không chỉ cái mà mình có”. Đó là con đường duy nhất để giữ lấy làng nghề gốm Cổ Đạm.
Giữ lấy làng gốm đất nung Cổ Đạm
TCCT
Nhân dân ta ở miền Trung quen gọi làng gốm đất nung này là làng nồi đất Cổ Đạm. Đây là một làng gốm cổ, khá nổi tiếng ở phía nam huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), gần quê của đại thi hào Nguyễn Du.
Thợ gốm