Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội cho biết, về cơ bản, tình hình phát triển các doanh nghiệp về sản xuất, chế biến chế tạo cơ khí nói chung và các doanh nghiệp của Hà Nội hiện nay nói riêng, đầu tiên, chúng ta nhìn thấy rằng:
Thứ nhất, trong tất cả các báo cáo của các Bộ, ban ngành thì chúng ta đều thấy có sự tăng trưởng. Nói về ngành cơ khí thì rất rộng, bao gồm cả cơ khí xây dựng, cơ khí nông nghiệp, nhưng trong toạ đàm này chúng ta sẽ quay lại ngành công nghiệp cơ khí gia công chế tạo, trong ngành công nghiệp hỗ trợ, thì như phóng sự vừa xem, chúng ta có 3 phân ngành chính gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ và ô tô và phụ tùng ô tô.
Trong lĩnh vực gia công chế tạo máy, chúng ta thấy rằng, tỷ trọng doanh nghiệp FDI đang tham gia hoạt động sản xuất tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn; trong đó các doanh nghiệp Việt đa phần là sản xuất linh, phụ kiện chi tiết để cung cấp ngược lại cho các doanh nghiệp FDI, bên cạnh đó là sản lượng dành cho xuất khẩu thì đây là 2 phần chính, còn những doanh nghiệp Việt để có được tên tuổi, thương hiệu mà đưa ra một sản phẩm của doanh nghiệp Việt thì hiện nay là rất hạn chế.
Thời gian vừa qua, cũng có bên Vinfast hoặc là một số thiết bị như nồi hơi Đông Anh, hay là những thiết bị về Tủ Trung Hạ thế,… thì đó là những sản phẩm có thể nói là made-in-Vietnam 100%.
Trong đó, tại khu vực Hà Nội và các thành phố, các tỉnh lân cận Hà Nội, đa số tập trung các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp FDI, bởi thế nên là các doanh nghiệp Việt Nam tại khu vực TP. Hà Nội đa phần là phát triển cho ngành phụ trợ, cung cấp phụ tùng cho các ngành giống như ngành điện tử, máy in, máy giặt giống như của các hãng như Canon, Samsung hoặc LG,…
Thứ hai, phụ tùng cho các ngành ô tô, xe máy như Honda, Yamaha là chính.
Còn các phần sản xuất, gia công, chế tạo thì đa số tại TP. Hà Nội hiện nay chúng tôi khảo sát thì cũng không có nhiều và một số công ty thì có sản xuất các linh, phụ kiện của mình để xuất khẩu đi ngước ngoài.
Đó là những tình trạng chung trong phát triển ngành công nghiệp TP. Hà Nội và trong thời gian vừa rồi cũng có những dự án, đề án để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội, trong đó có rất nhiều những doanh nghiệp thuộc TP. Hà Nội đã đăng ký tham gia.
Cũng giống như trong năm 2023, tổng kết lại thì trong tổng số sản phẩm thì có 10 mục sản phẩm của ngành sản xuất, gia công chế tạo cơ khí thuộc sản phẩm chủ lực của TP. Hà Nội, chiếm đến 30% tổng số sản phẩm về công nghiệp của TP. Hà Nội. Sơ bộ đây là những phần chúng ta đã xây dựng và phát triển được trong thời gian vừa qua.
Ông Nguyễn Đức Cường cũng chia sẻ thêm, về tình hình sản xuất trang thiết bị và cơ khí nói chung, đặc biệt là của Hà Nội thì điểm đột phá lớn nhất đó là Quyết định số 496/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội. Khi đề án xuất hiện thì chúng ta mới có những chương trình hỗ trợ, thực thi triển khai rất mạnh mẽ và phải thông qua các báo cáo cụ thể.
Từ năm 2021 đến năm 2024, Hà Nội đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp đăng ký tham gia chương trình các sản phẩm chủ lực này và hiện tại thành phố đã công nhận 172 sản phẩm thuộc 114 doanh nghiệp là sản phẩm công nghiệp chủ lực và đã vượt mục tiêu đề ra. Thì đây là một trong những đột phá của TP. Hà Nội trong năm vừa qua.
Thứ hai là việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư hoặc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Đơn cử, thời gian vừa qua, ngày 2/10 đã diễn ra Lễ khai mạc Triển lãm MTA 2024 Hà Nội, đó là triển lãm chuyên về ngành sản xuất gia công cơ khí.
Tiếp đến, thành phố đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho 43 cụm công nghiệp với tổng diện tích 753 ha - đây là một trong những quỹ đất, quỹ hạ tầng rất lớn, chuẩn bị cho việc đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là ngành sản xuất, gia công cơ khí chế tạo.
Tổng quan lại trên phương diện góc nhìn cá nhân của tôi, tôi thấy rằng có những thuận lợi:
Thứ nhất, về chính sách, có nhận được sự quan tâm của Chính phủ và TP. Hà Nội. Cụ thể là những chính sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ hoặc như Quyết định về đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội, hoặc là việc hỗ trợ vay vốn. Song, các chính sách này vẫn đnag ở trên phương diện tiếp cận và truyền thông, còn việc thực thi để thấy được những kết quả cụ thể thì vẫn đang còn nhiều vướng mắc, thì đây cũng là những khó khăn mà cần phải giải quyết.
Thứ hai, về nhà đầu tư, sự hiện diện của các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, LF, Panasonic, Qualcomm hay một số đơn vị liên quan đến mảng ô tô như Huyndai bây giờ đã uỷ thác cho Thaco và Trường Hải để lắp ráp, hay kể cả Vinfast, đây là những cơ hội rất lớn để chúng ta có thể tiếp cận với các đối tác khách hàng từ nước ngoài. Bởi vì họ cũng sẽ cần rất nhiều nhà cung cấp để sản xuất linh, phụ kiện cho họ.
Bên cạnh đó, những yêu cầu của những tập đoàn này có một điểm mấu chốt để giúp chúng ta có một điểm thuận lợi, đó là với những yêu cầu của họ thì chúng ta mới biết đến tiêu chuẩn, thế nào là tiêu chuẩn châu Âu, thế nào là tiêu chuẩn Mỹ, tiêu chuẩn Nhật,… và chúng ta hình thành nên những bộ tiêu chuẩn để tuân thủ theo.
Thông qua việc tiếp cận và làm việc với các tập đoàn lớn, chúng ta sẽ được chuyển giao về công nghệ, học hỏi quy trình quản lý. Đây là một trong những điểm mà tôi đánh giá là rất có giá trị khi mà các tập đoàn lớn đầu tư vào Việt Nam, bên cạnh những đơn hàng.
Thứ ba, các Hiệp định hợp tác toàn diện với Mỹ thời gian vừa qua chúng ta đã ký và với Nga, các FTA như EVFTA hay CPTPP là những Hiệp định chúng ta đã ký kết. Chúng ta hợp tác với Mỹ toàn diện, vậy trong phần toàn diện đấy có phần phát triển kinh tế, và trong phần phát triển kinh tế sẽ có phần phát triển liên quan đến công nghiệp. Vậy thì sẽ cần một hoạt động xuyên suốt từ Chính phủ cho đến các đại sứ quán và đặc biệt là các tham tán giữa hai nước, đưa ra những mục tiêu tổ chức các buổi họp mặt giữa hai nước và giữa các doanh nghiệp hai nước để xúc tiến ra thành cụ thể. Bởi vì sau khi hợp tác, chúng ta sẽ phải có quá trình xây dựng để đạt được tiêu chuẩn mà họ đưa ra, và dựa trên sự hậu thuẫn của Chính phủ hai bên thì các doanh nghiệp cũng mạnh dạn hơn trong việc lựa chọn và quyết định đối tác, đồng hành cùng đối tác đó, thay vì tự doanh nghiệp phải bơi ở trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, cơ chế giảm lãi suất. Tôi cũng không rõ nhưng trước đây khi tôi đầu tư trang thiết bị máy móc thì lãi suất đâu đó khoảng 8-10%, nhưng tại thời điểm hiện nay thì các ngân hàng đang chào sang phía chúng tôi là 5-5,5%, thì đó là việc giảm lãi suất từ ngân hàng và các tổ chức tài chính, tôi thấy điểm này cũng là lợi thế.
Thứ năm, đã hình thành các Hiệp hội ngành và hoạt động tương đối tốt, giống như Hiệp hội Cơ khí Việt Nam, Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hay Hiệp hội Doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ Hà Nội và từ đó triển khai các hoạt động như chia sẻ, đào tạo nội bộ, xúc tiến thương mại & đầu tư nội khối,… hay là những hoạt động cùng tổ chức các triển lãm ở nước ngoài hoặc trong nước, các Hiệp hội này đã đóng vai trò kết nối giữa các Bộ, ban ngành, các chính sách, đường lối để tuyên truyền tới các doanh nghiệp cụ thể trong ngành đó và các doanh nghiệp cơ khí hay kể cả các doanh nghiệp khác cũng cảm thấy rằng mình không giống như một người con bị lạc đàn mà cũng có những người con giống như mình đang hoạt động và sinh hoạt trong một tập thể.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, chúng ta gặp rất nhiều những khó khăn.
Thứ nhất, chúng ta biết rằng, khi đầu tư vào ngành sản xuất, đặc biệt là ngành sản xuất cơ khí thì sẽ cần đầu tư về cơ sở hạ tầng, sau đó là máy móc, trang thiết bị, sau đó là xây dựng hệ thống quy trình và phải có đơn hàng để tập dượt trong quá trình xây dựng quy trình đó. Điều này không chỉ diễn ra trong 1-2 tháng mà là 2-3 hoặc 5 năm và các doanh nghiệp họ rất khó khăn về vấn đề liên quan đến nguồn vốn, trong đó nguồn vốn đầu tư về đất đai, về nhà xưởng sau đó là máy móc và trang thiết bị, đặc biệt là máy móc và trang thiết bị thì không thể dùng đồ cũ hoặc đồ rẻ được vì những sản phẩm này là cơ khí chính xác, thì đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài chính. Theo đó, đa số các doanh nghiệp hiện tại vẫn phải dựa trên vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính để đầu tư và trong quá trình đó có thể 5-7 năm mới có thể thu hồi vốn, nhưng như lúc nãy tôi tính, với lãi suất 5% thì sau 10 năm, giá trị đầu tư đã tăng 50%. Như vậy, nếu như chúng ta có nguồn quỹ đất dành riêng cho doanh nghiệp mà không thu tiền thì chúng ta đã có một khoản lớn.
Thứ hai, nếu có nguồn vốn đầu tư không lãi suất thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội, tất nhiên không lãi suất chỉ trong một khoảng thời gian và phải có trách nhiệm hoàn lại, nhưng như vậy sẽ có một lượi thế hơn rất nhiều. Tôi đã đến Nhật thì họ cũng có những nguồn vốn giống như vậy và hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp.
Thứ ba, về nguyên vật liệu. Ví dụ như nguyên vật liệu thép thì ở Việt Nam gần như mới đang sản xuất dừng lại ở CT3 dành cho ngành xây dựng, nhưng nếu các mác thép cao hơn như C45 gần như chúng ta phải nhập khẩu và đa số thị trường nhập khẩu hiện tại là từ Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ hoặc Thái Lan và khi mà chúng ta bị động về nguồn nguyên vật liệu như thế này thì tất cả những biến động xảy ra trên thế giới như chiến tranh hay là dịch bệnh thì gần như là chúng ta thiếu quyền chủ động. Bên cạnh đó, chúng ta cũng hoàn toàn thiếu quyền chủ động trong việc quyết định giá.
Thứ tư là hạn chế về công nghệ hiện đại cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam, các ngành cơ khí thì ngoài những doanh nghiệp đầu đàn như anh Phong có chia sẻ là những con “sếu đầu đàn”, đa số tất cả anh em ngành cơ khí đều xuất phát lên từ nghề và những anh em này cơ bản sẽ sử dụng đa phần là kỹ năng, kinh nghiệm để mua những trang thiết bị đã qua sử dụng hoặc là máy giá rẻ, sau đó sử dụng những kinh nghiệm, kỹ năng của mình để đưa ra những sản phẩm nên các sản phẩm đạt chất lượng nhưng nếu số lượng lớn lại không đồng đều.
Ngoài ra, để sản xuất ra một sản phẩm thì ví dụ như nước ngoài họ cần 1 phút thì mình cần phải 1,5 phút thì đó cũng là một trong những hạn chế. Bởi vì khi nước ngoài họ đã đầu tư công nghệ về tự động hóa và hiện đại hóa thì hoàn toàn khâu con người và khâu kiểm soát chất lượng sản phẩm cũng như đo đạc là đều được tự động hóa. Nên đây là một trong những điểm mà tôi thấy khá là khó khăn cho doanh nghiệp Việt, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ năm, đa phần tất cả những sản phẩm tại Việt Nam hiện tại thì chiếm rất nhiều tỉ trọng trong việc gia công OEM cho các doanh nghiệp FDI. Bởi vậy thì sẽ không cần cái đội ngũ R&D, không cần đội ngũ thiết kế quá sâu mà đa phần họ cung cấp bản vẽ và mình gia công làm lại và đây cũng là một trong những điều mà rất nhiều doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động lâu trong tình trạng như vậy thì họ thiếu hẳn đi nhóm R&D nghiên cứu phát triển sản phẩm và khi mà R&D nghiên cứu phát triển sản phẩm còn nhiều hạn chế thì việc sáng tạo và đổi mới hoặc là ra những sản phẩm mới hoặc là tìm kiếm cơ hội mới thì sẽ hạn chế và gặp khó khăn.
Thứ sáu, như tôi nói lúc đầu, mặc dù cũng có rất nhiều chính sách nhưng mà các cơ chế, chính sách này thì vẫn đang còn dừng lại ở tuyên truyền và cũng có một số ít doanh nghiệp đã chạm vào cơ chế, chính sách này và đã hoàn tất. Nhưng ở đây các cơ chế, chính sách này vẫn còn rất nhiều những thủ tục pháp lý rồi, rất nhiều những quy trình còn đang rất có những vướng mắc mà cần tháo gỡ để làm sao cho thuận lợi hơn thì đấy cũng là một trong những điều khiến cho ngành sản xuất gặp những khó khăn nhất định.
Cuối cùng, sau tất cả những khó khăn bên trên kéo theo tình trạng là chi phí quản lý, chi phí sản xuất nó sẽ tăng cao và câu chuyện đó là lợi thế cạnh tranh về giá của anh ở đâu?