Sản xuất và tiêu thụ
Tại thời điểm này, Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng 5.000 công ty hoạt động trong lĩnh vực nhựa, hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có khoảng trên 100 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lực lượng lao động 250.000 người, ước tính hàng năm lĩnh vực này tạo cơ hội việc làm cho khoảng 20.000 lao động mới. Các doanh nghiệp nhựa Thổ Nhĩ Kỳ phần lớn có trụ sở, nhà máy tại thành phố Istanbul và Izmir.
Với lực lượng lao động hùng hậu, sử dụng công nghệ hiện đại, ngành nhựa Thổ nhĩ Kỳ đã có bước phát triển nhanh chóng. Chỉ tính trong vòng 8 năm, sản xuất nhựa của nước này đã đạt từ 717 ngàn tấn năm 2001 lên 5,1 triệu tấn năm 2008, tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 14%/năm. Cũng trong giai đoạn này, Thổ Nhĩ Kỳ đầu tư vào máy móc, thiết bị hiện đại 3,1 tỷ USD, trong đó 88% là nhập khẩu. Ước tính, hiện sản xuất nhựa của Thổ Nhĩ Kỳ đạt khoảng trên 8,6 triệu tấn. Tuy nhiên, so thi trường toàn cầu chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Số liệu của Hiệp hội nhựa Châu Âu cho thấy, tính riêng trong năm 2011, sản xuất nhựa toàn cầu đạt 280 triệu tấn, tăng 10 triệu tấn so năm 2010. Trong đó, Trung Quốc chiếm thị phần nhiều nhất với 23%, EU (27 nước) chiếm 21% với 58 triệu tấn, Trung Đông – Châu Phi chiếm 7%, Nhật bản 5%, Mỹ la tinh 5%, các nước Châu Á khác 16%. Với ước tính khoảng 7,5 triệu tấn nhựa sản xuất trong năm 2011, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ chiếm thị phần rất nhỏ khoảng 2,7% trong sản xuất nhựa toàn cầu. Tuy nhiên, so với các nước Châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ đứng ở nhóm đầu cùng với Đức, Ý, Pháp, Tây Ban Nha.
Do có lợi thế về sự ra đời muộn, sử dụng công nghệ tân tiến, nên sản phẩm nhựa của Thổ Nhĩ Kỳ khá đa dạng, được dùng trong lĩnh vực xây dựng, công nghiệp ô tô, đóng gói, dẫn nước, đồ dùng nhà bếp, trong nhà…đáp ứng được nhu cầu nội địa và quốc tế về chất lượng.
Tuy được đánh giá là ngành công nghiệp trẻ, phát triển nhanh, nhưng việc sự dụng nguồn nguyên liệu nội địa của Thổ Nhĩ Kỳ rất hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng 15 - 20% của nhu cầu sản xuất và xuất khẩu (trong đó có đến 60% nhựa nguyên liệu được sản xuất trong nước dành cho xuất khẩu), còn lại phải nhập khẩu. Nguyên liệu nhựa trong nước được cung cấp chủ yếu bởi Tập đoàn Hóa dầu Thổ Nhĩ Kỳ PETKIM. Trong năm 2011, Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất được 820 ngàn tấn nguyên liệu nhựa, trong đó riêng PETKIM sản xuất được 670 ngàn tấn.
Trong các nguyên liệu nhựa Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất được thì nhựa dẻo nhiệt chiếm đến 90%, trong đó PETKIM cung cấp đến 30%. Ngoài ra, còn có một số nhà sản xuất nguyên liệu nhựa khác như Khu liên hợp Aliaga (thuộc PETKIM), Tập đoàn tinh chế dầu lửa TUPRAS sản xuất các nguyên liệu cơ bản như PE, PS, PP, PVC và các nguyên liệu hóa chất khác như ethylene glycol, phthalic anhydride, terephthalic acid, carbon black. Ngoài ra, Thổ Nhĩ Kỳ cũng sản xuất được nhựa tái chế và đáp ứng được 10% nhu cầu nội địa.
Mức tiêu thụ nhựa bình quân đầu người hiện nay của Thổ Nhĩ Kỳ ước tính đạt khoảng 64kg, thấp hơn so các nước phát triển. Nhóm sản phẩm nhựa được tiêu thụ mạnh nhất là đóng gói, với 27%. Tiếp đến là nhóm dùng cho lĩnh vực xây dựng 14%, dệt may 11%, đồ đạc dùng trong nhà 10%. Trên 90% hàng nhựa được bán trong nước là nhập khẩu.
Ngành công nghiệp nhựa Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay đã áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia cũng như quốc tế và EU, áp dụng cho tất cả các loại sản phẩm từ nguyên liệu thô cho đến bán thành phẩm và thành phẩm, như: TSE, ISO, CE Mark.
Nhập siêu cao nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa
Là quốc gia có mức dân số lên đến trên 75,6 triệu người, nền công nghiệp phát triển nên nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng nhựa ở Thổ Nhĩ Kỳ rất cao, trong khi nguồn nguyên liệu nội địa không đáp ứng được, do vậy việc nhập khẩu nguyên liệu và sản phẩm nhựa của nước này được đánh giá rất tiềm năng.
Bảng: Kim ngạch xuất nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa của Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 2009 - 2013
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
2009
3.094
6.944
- 3.850
2010
3.717
9.730
- 6.013
2011
4.580
12.578
- 7.998
2012
5.013
12.505
- 7.492
7 tháng đầu năm 2013
3.176
8.334
- 5.158
Nguồn: Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ
Về xuất khẩu, bảng thống kê trên cho thấy, xuất khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa của Thổ Nhĩ Kỳ đã có mức tăng trưởng khá cao và đều đặn trong những năm gần đây. Nếu như kim ngạch năm 2009 đạt 3,094 tỷ USD, đến năm 2012 con số này đã tăng lên 5,013 tỷ USD, tăng 62% so năm 2009. Cụ thể, so cùng kỳ năm trước, năm 2010 tăng 20,1%, năm 2011 tăng 23,2%, năm 2012 tăng 9,5%, 7 tháng đầu năm 2013 tăng 10,2%. Riêng năm 2009, do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức tăng trưởng âm 13,2%.
Chủng loại nhựa xuất khẩu chủ yếu của Thổ Nhĩ Kỳ là các sản phẩm dùng để đóng gói, dùng trong lĩnh vực dệt, đồ dùng trong nhà, nhà bếp, nhựa tấm, màng mỏng, nhựa ống, túi bao bì nhựa, các bán thành phẩm đàn hồi của Container chở hàng, các phụ kiện dùng cho máy giặt…Xuất khẩu sang trên 100 nước trên thế giới, trong đó chủ yếu là các nước trong khối EU, Nga, các nước thuộc Liên Bang Xô Viết cũ và các nước Trung Đông. Trong đó, Iraq là nước luôn đứng đầu trong xuất khẩu nhóm hàng này của Thổ Nhĩ Kỳ, với 16,2 triệu USD năm 2012, tiếp theo là Đức 14,3 triệu USD, Iran 13 triệu USD, Azerbaijan 8,3 triệu USD, Pháp 8 triệu USD, Nga 7,3 triệu USD…
Cũng giống như xuất khẩu, nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đạt mức tăng trưởng cao trong thời gian qua. Kim ngạch nhập khẩu năm 2012 đạt 12,505 tỷ USD, trong khi đó mức này năm 2009 chỉ là 6,944 tỷ USD. Cụ thể, so cùng kỳ năm trước, mức tăng năm 2010 là 40,1%, năm 2011 tăng 29,3%, 7 tháng đầu năm 2013 tăng 11,9%. Riêng hai năm 2009 và 2012 có mức tăng trưởng âm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và nhu cầu của thị trường, với mức giảm tương ứng là 26% và 0,6%.
Như đã đề cập ở phần trên, do Thổ Nhĩ Kỳ chỉ tự đáp ứng được nguyên liệu nhựa khoảng 15 - 20%, nên để đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu nước này chủ yếu phải dựa vào nhập khẩu. Thực tế cho thấy, nguyên liệu chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng này.
Tính riêng năm 2011, cũng là năm Thổ Nhĩ Kỳ có kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa cao nhất trong 5 năm qua với 12,58 tỷ USD. Trong đó, riêng nhập khẩu nhựa nguyên liệu đạt 5,2 triệu tấn, trị giá 10 tỷ USD, tăng 10% về số lượng và 30% về giá trị so năm 2010, chiếm đến 80,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này. Trong khi đó, xuất khẩu nhựa nguyên liệu chỉ đạt 492 ngàn tấn, trị giá 894,5 triệu USD, tăng 12% về số lượng và 27% về giá trị so năm 2010.
Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa từ trên 100 quốc gia trên thế giới, trong đó 63% nhập khẩu từ Saudi Arabia, Đức, Bỉ, Hà Lan, Nam Triều Tiên, Tây Ban Nha, Italia, Pháp và Mỹ.
Việt Nam cũng nằm trong số các nước Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, những năm qua kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức tăng trưởng cao. Cụ thể, nếu như năm 2010 đạt 8 triệu USD, đến năm 2012 đạt 17,6 triệu USD. Riêng 3 tháng đầu năm 2013 đạt 17,2 triệu USD, tăng 22% so cùng kỳ năm 2012.
Tuy có mức tăng trưởng cao, nhưng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa của Việt Nam còn thấp và chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của Thổ Nhĩ Kỳ.
Như vậy, có thể khẳng định Thổ Nhĩ Kỳ là nước nhập siêu rất cao nhóm hàng nguyên liệu và sản phẩm nhựa. Cụ thể, năm 2009 nhập siêu 3,850 tỷ USD, bằng 124,4% xuất khẩu; năm 2010 nhập siêu 6,013 tỷ USD, bằng 161,8% xuất khẩu; năm 2011 nhập siêu 7,998 tỷ USD, bằng 174,6% xuất khẩu; năm 2012 nhập siêu 7,492 tỷ USD, bằng 149,5% xuất khẩu; riêng 7 tháng đầu năm 2013 nhập siêu 5,158 tỷ USD, bằng 162,4% xuất khẩu.
Để cải thiện tình trạng này, các chuyên gia cho rằng, phải khuyến khích đầu tư mới vào lĩnh vực hóa dầu nhằm tạo nguồn nguyên liệu đáp ứng sản xuất và xuất khẩu.