Trao đổi thương mại Việt Nam - Ấn Độ liên tục tăng trưởng
Ấn Độ được xem là một trong mười đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2010, trao đổi thương mại giữa hai nước đã có bước nhảy vọt về mặt lượng và chất, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ đạt 993 triệu USD, nhập khẩu đạt 1,746 tỷ USD. Như vậy, so với năm 2009 xuất khẩu tăng trưởng 136%, nhập khẩu tăng 6,8%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng 33,3%, nhập siêu giảm từ 1,215 tỷ USD xuống còn 753 triệu USD.
Tính đến 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt: 1,798 tỷ USD, tăng trưởng 46,8% so với cùng kỳ 2010, trong đó xuất khẩu đạt: 590,5 triệu USD, tăng trưởng 50% và nhập khẩu đạt 1,207 tỷ USD, tăng 32,8%. Nhập siêu ở mức 617 triệu USD, tăng 22,3 % so với cùng kỳ năm 2010. So với những năm trước, cán cân thương mại không quá nghiêng về Ấn Độ và những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là thức ăn chăn nuôi, dược phẩm, thép đặc chủng với giá cả, chất lượng phù hợp. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là: điện thoại di động, sắt, than đá, cao su, quặng, chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, hạt tiêu, cà phê, vải, giầy dép, phôi thép...
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Ấn Độ
Thực tế cho thấy, tiềm năng phát triển thương mại của hai nước còn rất lớn. Thương mại hai chiều chỉ chiếm tương ứng khoảng 0,4% và 1,5% tổng kim ngạch thương mại của Ấn Độ và Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ chỉ chiếm 0,5% kim ngạch nhập khẩu của nước này (187 tỷ USD). Ấn Độ là thị trường đang không ngừng vận động với gần 1,2 tỷ người tiêu dùng. Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ hai ở châu Á. Tuy nhiên, do nhập khẩu từ Ấn Độ những năm vừa qua tăng nhanh dẫn đến nhập siêu từ Ấn Độ lớn và là vấn đề nổi cộm trong quan hệ thương mại song phương. Việt Nam nhập khẩu từ Ấn Độ chủ yếu là nguyên phụ liệu thức ăn gia súc, dược phẩm, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Do vậy, điều cốt yếu để giảm bớt thâm hụt thương mại chủ yếu phải dựa vào việc đẩy mạnh xuất khẩu với sự tham gia tích cực của các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp Việt Nam.
Tác động của Hiệp định AITIG đối với quan hệ hai nước
Hàng hoá của Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu sang Ấn Độ tốt hơn, nhất là khi các rào cản thuế quan sẽ được dỡ bỏ đáng kể theo Hiệp định AITIG. Trong thời gian qua, nhiều mặt hàng mới của Việt Nam thâm nhập vào thị trường Ấn Độ là cao su, phần cứng vi tính và các mặt hàng điện tử, quế và gia vị, dệt may ... là minh chứng cho thấy cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Ấn Độ đang có chiều hướng thay đổi tích cực và bền vững hơn. Các mặt hàng có khả năng tăng trưởng mạnh trong quan hệ xuất nhập khẩu hai nước có thể kể đến là hàng xuất khẩu từ Việt Nam gồm có nông sản (hạt tiêu, chè, cà phê, cao su tự nhiên, hồi, quế), khoáng sản, đồ gỗ, quần áo, dầy dép, điện tử, cơ khí...; và hàng xuất khẩu từ Ấn Độ gồm sắt thép, máy thiết bị, nguyên liệu thức ăn gia súc, dược phẩm, hạt nhựa, hóa chất, bông, phụ liệu da giày, giấy, hải sản...
Bên cạnh lợi ích thương mại, việc tham gia Hiệp định AITIG sẽ góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư. Cho đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận 51 dự án đầu tư từ Ấn Độ với số vốn đăng ký đạt 213 triệu USD tập trung chủ yếu vào các ngành như công nghiệp chế tạo và khai khoáng.
Một số lưu ý khi tiếp cận thị trường Ấn Độ
Đầu tiên là doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu kỹ những nét cơ bản về phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng, khả năng kinh tế và sức mua của từng loại đối tượng khác nhau tại Ấn Độ. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu thị trường thì cần có định hướng hay xây dựng chiến lược về thị trường này. Để phát triển, giữ vững thị trường thì việc mở Văn phòng đại diện tại Ấn Độ là việc làm cần thiết.
Thứ hai, cần chú trọng và tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường và khách hàng thông qua tham gia một cách chủ động các hội chợ, triển lãm, hội thảo người mua – người bán tại Ấn Độ và ngay tại Việt Nam.
Thứ ba, hiện tại cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của hai nước có nhiều điểm tương đồng, qua đó thể hiện có những “khoảng trống” trong thị trường ở mỗi nước mà doanh nghiệp cần có cách làm phù hợp chiếm lĩnh khoảng trống đó. Cần lưu ý rằng với số dân gấp hơn 10 lần Việt Nam, khoảng trống trong thị trường của Ấn Độ có nhiều cơ hội xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư, yếu tố nội tại của mỗi doanh nghiệp Việt Nam, nhất là về nhân lực. Cán bộ làm công tác ngoại thương cần được đào tạo bài bản, nắm vững các quy định luật pháp chung cũng như các hiệp định, các văn bản hướng dẫn thực thi Hiệp định FTA Asean-Ấn Độ của Việt Nam. Ngoài ra, cần chú trọng khâu thỏa thuận, chuẩn bị hợp đồng mua bán, điều khoản thanh toán, giải quyết tranh chấp hay chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Thứ năm, trong quá trình giao dịch, cần chuẩn bị kỹ các phương án, sách lược cho đàm phán vì doanh nhân Ấn Độ giỏi tiếng Anh và giỏi đàm phán. Cuối cùng là, trong quá trình hay trước khi kinh doanh tại thị trường Ấn Độ, nếu cần hỗ trợ, các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên hệ với Bộ Công Thương (thông qua Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á) hoặc Thương vụ Việt Nam tại Ấn Độ.
Định hướng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Ấn Độ
Để đẩy mạnh xuất khẩu sang Ấn Độ, tận dụng tối đa những lợi ích, lợi thế đem lại từ thực thi FTA Asean-Ấn Độ, việc tiếp cận thị trường là một khâu quan trọng. Vì vậy trong thời gian tới, với chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Công Thương, Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á tập trung vào một số việc chính sau:
- Hoàn thiện Đề án Xúc tiến xuất khẩu vào các bang của thị trường Ấn Độ trình Bộ phê duyệt. Đây là cơ sở, định hướng có trọng tâm, trọng điểm vào các bang có sức mua lớn, điều kiện giao dịch, giao thông thuận lợi, xác lập chỗ đứng của các mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
- Phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại nghiên cứu, triển khai xây dựng Đề án thành lập Trung tâm xúc tiến xuất khẩu đặt tại Mum-bai, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại lớn của Ấn Độ. Thông qua Trung tâm này, các hoạt động xúc tiến thương mại sẽ đẩy mạnh và tạo những tiền đề thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến với thị trường Ấn Độ.
- Tăng cường công tác thông tin, tổ chức Hội thảo giới thiệu thị trường và lợi thế hiệp định AITIG mang lại tới cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Công tác này cần làm thường xuyên và liên tục để doanh nghiệp, doanh nhân nắm thông tin, hiểu biết rõ ràng về thị trường Ấn Độ, cũng như các quy định của AITIG.
Ngoài ra, các hoạt động như khuyến khích doanh nghiệp tham dự các Hội chợ Quốc tế Ấn Độ, tổ chức đoàn xúc tiến thương mại tại thị trường Ấn Độ trong năm 2012, hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm kiếm khách hàng, đối tác... sẽ được tiến hành và triển khai một cách đồng bộ.
Với sự nỗ lực cao của các cơ quan quản lý nhà nước, sự đồng hành với các doanh nghiệp và quan trọng là quyết tâm, định hướng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam thì khả năng xuất khẩu vào thị trường Ấn Độ sẽ có bước tiến mới, bền vững hơn.
Hiệp định thương mại tự do ASEAN- Ấn Độ và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
TCCT
Kể từ khi Việt Nam và Ấn Độ ký Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện ASEAN-Ấn Độ (AITIG) vào năm 2009 đã mở ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, đặc biệt là trên phương diện giao lưu trao đổi