Lạm phát năm 2007 lên tới 12,63% cao nhất trong 12 năm qua, đến tháng 4-2008 kích lên 21,4% so với cùng kỳ năm trước, cao gấp 2 lần so với Trung Quốc, dẫn đầu các nước trong khu vực. Lạm phát phương hại đến từng nhà, đến từng bữa ăn hàng ngày. Mỗi cá nhân, tổ chức có thể là tác nhân đồng thời gánh hậu quả.
Nhận diện đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam hiện nay: (1)Không phải là khan hiếm hàng hoá mà hàng hoá tăng giá, khối lượng giao dịch tăng giảm từng lúc, (2) Không phải là lạm phát tiền giấy bù đắp bội chi ngân sách, (3) Không phải là đáo nợ và rút vốn ào ạt, (4) Không cắt giảm việc làm hàng loạt, thậm chí luôn thiếu lao động… Lạm phát trong 6 tháng (10/2007- 4/2008) là hiện tượng “cuồng tiền” trong ngắn hạn, hậu quả của chuyển động “hỗn loạn” của các phương tiện thanh toán đòi hỏi thanh khoản sinh lời gấp và an toàn đồng vốn.
***
Các chỉ tiêu kinh tế- xã hội năm 2007 tăng cao, đỉnh trong nhiều năm, trong đó chỉ tiêu GDP đạt 8,5%, vốn đầu tư toàn xã hội đã vượt qua 40% tổng GDP của nền kinh tế một mức rất cao so với khả năng hấp thụ vốn; phân bố vốn đầu tư, phần tăng GDP thiên lệch giữa các thành phần kinh tế, ngành,vùng, tầng lớp dân cư đã phái sinh hiện tượng “cuồng tiền” trong tâm lý của những địa chỉ có thu nhập cao, nắm nhiều vốn, kích tiếp vào tâm lý xã hội, tạo hội chứng đầu cơ ngắn hạn nhằm thâu chênh lệch giá chứ không phải tìm kiếm lợi nhuận bằng kinh doanh và đầu tư dài hạn. Ví dụ tỷ lệ vốn hoá trên thị trường chứng khoán, chỉ số VNI tăng quá xa so với tỷ suất lợi nhuận của công ty niêm yết, bỏ qua lãi suất cơ bản của ngân hàng; hoặc như hàng vạn khách hàng đăng ký mua chung cư từ một dự án, gây ra ảo giác, ắt không bền!
Các dòng tiền đổ vào thị trường: Đầu tư, tăng trưởng, lạm phát là ba đầu dây kết nối co kéo lẫn nhau có sự tham gia của toàn xã hội. Vốn trong dân bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và chứng từ có giá là bao nhiêu? Nếu lấy kết quả điều tra mức sống năm 2004, với mức tăng 10%/năm thì thời điểm hiện nay vốn tích luỹ trong dân chỉ khoảng 10 tỷ USD, do vậy sức tăng phương tiện thanh toán phải quay vòng.
Đó là các con số sau: Đầu tư nước ngoài đăng ký năm 2007 đạt 21,3 tỷ đô la bằng 36% so với thời kỳ 1988-2006, gấp đôi năm 2006; mức giải ngân FDI năm 2007 (gồm cả vốn vay) đạt trên 8 tỷ USD bằng 23% so với thời kỳ 1988-2006, gấp đôi năm 2006. Xu hướng nhà đầu tư nước ngoài dùng công nghệ hợp lý, vốn mồi vừa phải, kỹ năng quản lý năng động kết hợp với nhiều vốn, nhiều đất đai, sử dụng nhân lực, thị trường tại chỗ đẩy hệ số ICOR cao là hiện tượng lạm phát chi phí đẩy, chi phí cao. Vốn FDI và ODA giải ngân năm 2007 đạt trên 10 tỷ USD chiếm đến 30% vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra nguồn vốn đối ứng khá lớn, tăng nhập siêu, cần nghiên cứu tác động này, có phải là yếu tố “nhập khẩu lạm phát”?
Vốn ODA khá ngoạn mục: Từ năm 1993 -2007, các nhà tài trợ cam kết cho vay đến 42 tỷ USD, đã ký kết được 32 tỷ USD, giải ngân gần 20 tỷ USD đạt tỷ lệ cao so với nhiều quốc gia nhận ODA; riêng năm 2007 lập đỉnh cam kết 5,4 tỷ, ký kết 3,8 tỷ và giải ngân 2,1 tỷ; hai năm 2006 và 2007 chiếm 20% tổng mức giải ngân từ 1993-2007.
Kiều hối trong 5 năm 2003-2007 đạt là 22,5 tỷ USD, mỗi năm tăng 1 tỷ, năm 2007 đạt 6 tỷ USD, người nhận kiều hối tìm kiếm đến 10 cơ hội đầu tư, trú ngụ, bảo toàn đồng vốn là yếu tố tăng cung tiền thực.
Tổng nguồn vốn thực (đã giải ngân) từ nước ngoài vào năm 2007 bao gồm vốn FDI, ODA, kiều hối, phát hành trái phiếu, vay thương mại, vốn NGO có thể đạt tới gần 20 tỷ USD (số thống kê thường đạt đến 90% số thực, vẫn còn nguồn FDI đầu tư chui như bán hàng chuyển thành vốn góp, kiều hối trực tiếp, thanh toán bù trừ giữa các cá nhân,...). Theo ước tính của tôi thì vốn trong nước và ngoài nước đạt tỷ lệ 1:1, tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 50% GDP.
Số liệu này thực sự mừng vì môi trường đầu tư được cải thiện nếu không nói là lới lỏng. Các địa phương, các tập đoàn được phân quyền tự quyết các dự án chiếm đất nông nghiệp, đất rừng tạo dự án, tạo vốn. Việc tăng nguồn vốn đầu tư không kèm theo hiệu quả dài hạn gây áp lực tăng tiền kích lạm phát, giảm chất lượng tăng trưởng. Giá trị gia tăng phân bổ bất bình đẳng, đẩy gánh nặng chi tiêu Chính phủ vào các chương trình xã hội.
Một dòng tiền quan trọng đó là vàng, có tính thanh khoản cao, nhạy cảm với giá cả thị trường, tâm lý tích vàng, đầu cơ vàng, 4 tháng đầu năm 2007 nhập khẩu 40 tấn vàng đáp ứng nhu cầu cất trữ cùng với lãi suất cao có thể làm lạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chúng ta hơi sớm tự tin, kỳ vọng vào thị trường chứng khoán với hệ số vốn hoá đến 40% GDP, đã hút vốn đầu cơ từ nền kinh tế với kỳ vọng không chắc chắn bởi thị giá cổ phiếu đã lệch xa giá trị thực, con lắc dương ảo bao nhiêu thì thực âm bấy nhiêu, phải rất lâu đến gần chục năm nữa mới có khả năng phục hồi về đỉnh của đầu năm 2007. Vốn chứng khoán thiên về đầu cơ ngắn hạn, lướt sóng, nhanh đoản mệnh giá.
Vốn tín dụng của các ngân hàng là nguồn cung lớn của nền kinh tế với hệ số nhân tiền khá mạnh, hỗ trợ nhiều nhà đầu tư, đầu cơ tham gia các thị trường. Chỉ tiêu dư nợ năm 2007 tăng 54% so với năm 2006, quán tính đó tiếp tục tăng 10,8% trong quý 1-2008 so với đầu năm.
Sau cùng là thị trường bất động sản với khả năng nhân tiền không kém ngân hàng, tài sản hữu hình đang thế chấp ngốn đến 50% tổng tài sản của ngân hang hay bằng tổng GDP của nền kinh tế năm 2007.
Dòng tiền chuyển động dưới tác động của quy luật thị trường và tâm lý “thực lợi” đòi mọi hoạt động đầu tư, đầu cơ phải có tính thanh khoản nhanh mang lại thu nhập cao dẫn đến các nhà đầu tư, đầu cơ bị nhiễm “hội chứng cuồng tiền”. Trong chuyển động “brao” có những va đập ở một số thị trường như chứng khoán, bất động sản, thị trường vàng, ngoại tệ,... tạo tâm lý đám đông “ào ào” di chuyển vốn từ thị trường này sang thị trường khác, kích vào thị trường lương thực, thực phẩm, đồ tiêu dùng thiết yếu bất chấp khả năng cung trong nước.
Dựng cảnh hội chứng “cuồng tiền”: Có khoảng 500 ngàn người, bình quân nắm trong tay 2 tỷ đồng dạng tiền giấy nội ngoại tệ, vàng, chứng khoán, chứng từ có giá tương đương với 65 tỷ USD gần bằng tổng GDP của nền kinh tế năm 2007. Số tiền đó bao gồm cả vốn vay ngắn hạn có thế chấp ở thị trường tổ chức và vay mượn cá nhân khiến họ rất “sốt ruột, ăn ngủ không yên” khi thấy đồng tiền của người khác sinh lời hàng chục, hàng trăm triệu trong từng ngày giao dịch, khi mà lãi suất đáo hạn có nguy cơ lạm sâu vào vốn tự có. Các ngân hàng bị cuốn vào cơn sốt, một nghiệp vụ cho một nhà đầu cơ vay có lãi hơn cả 1000 hộ vay món nhỏ, kích tâm lý đầu cơ, nhưng rủi ro đẩy về phía người vay và người gửi tiền tiết kiệm.
Những nhà đầu cơ hiểu rõ tâm lý này, họ tìm mọi cách kích hoạt các thị trường với chiêu làm giá, mua vào bán ra liên tục, hút lòng tham từ các nhà đầu tư, đầu cơ khác và kết cục những biến thái của thị trường khiến những mưu trí ngộ ra rằng “Mọi người tham gia thị trường, làm nên kỳ tích đột biến nhưng thị trường không tuân theo ý chí của cá nhân” một số hưởng lợi hoặc thua thiệt trong ngắn hạn đã ngẫm nghĩ về danh mục đầu tư hiệu quả với các tỷ lệ phân bổ vốn, thời gian hợp lý hơn.
***
Từ tháng 5/2008 đến cuối năm thị trường vào chiều hướng ổn định hơn do các tác động sau:
Thứ nhất, điều hành của Chính phủ kết hợp hành chính và thị trường trong biện pháp chống lạm phát, một mặt yêu cầu các ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc, “quản lý được mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ cả năm so với năm 2007 không quá 30%- Thống đốc Nguyễn Văn Giàu-2008”. Mặt khác dâng trần lãi suất cơ bản để các ngân hàng gom tiền trong dân, thúc đẩy doanh nghiệp, người vay vốn, người tiêu dùng tính toán hiệu quả. Điều chỉnh lãi suất cơ bản là biện pháp quan trọng nhất trong chống lạm phát, thức tỉnh các “tâm hồn mê loạn” để cân bằng các thị trường. Chỉnh lãi suất cơ bản là biện pháp mà các ngân hàng Trung ương của nhiều nước sử dụng thành công “vỗ về đồng tiền nóng nảy, trôi nổi, ngủ quên”. Trong tương lai các dự báo kinh tế vĩ mô cần “gút” lại mức điều chỉnh lãi suất cơ bản của nền kinh tế; mở rộng các thoả thuận tín dụng, thay gửi tiền tiết kiệm bằng hình thức “cho ngân hàng vay”, có thể lập hiệp hội những người cho ngân hàng vay vốn. Lãi suất cơ bản cần được điều chỉnh linh hoạt, hạn chế tâm lý thực lợi làm giảm đầu tư, dẫn đến giảm phát, khó kích cầu!
Thứ hai, tiết kiệm chi tiêu công, rà soát các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách, loại bỏ các dự án không có trong quy hoạch, kế hoạch, điều tiết kịp thời dự trữ quốc gia, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, cân đối lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu cho những đối tượng xác định. Biện pháp quan trọng hơn nữa là kiểm soát cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu vào, ra các sản phẩm quan trọng như xăng dầu, sắt thép, xi măng, điện, nước, các nguyên liệu cơ bản,...kiên quyết chống đầu cơ, chống tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính, dỡ bỏ các rào cản, công khai hoá, minh bạch hoá chi tiêu công.
Thứ ba, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư, đầu cơ cá nhân cũng tự nhìn nhận đánh giá thị trường, kiểm lại hoạt động của mình theo hướng tập trung theo đuổi các ngành nghề, mục tiêu lựa chọn, hành động theo tính chuyên nghiệp, dài hạn, chất lượng.
Từ hiện tượng lạm phát cuối năm 2007 và đầu năm 2008 cho nhận xét khả quan: Vốn đầu tư ngày càng dịch chuyển vào doanh nghiệp và nhân dân, khả năng xã hội hoá đầu tư cần chuyển thành hiện thực với điều kiện phải “thay đổi, cởi bỏ chiếc áo cơ chế” theo hướng:
- Rà soát, xoá bỏ các độc quyền của doanh nghiệp lớn được nhà nước ưu đãi đầu vào, đầu ra; Nhà nước và xã hội kiểm soát các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp lớn độc quyền giá, chống các khuynh hướng “nhà nước hoá” các tập đoàn kinh tế!
- Xây dựng mô hình các tập đoàn tài chính cổ phần với các thành viên là các quỹ đầu tư, công ty tài chính và nhà đầu tư cá nhân, thu hút các nhà đầu cơ tham gia đầu tư; các tập đoàn này đầu tư các dự án lớn được cổ đông đồng thuận, công khai hoá, minh bạch hoá dòng vốn, phân chia cổ tức hợp lý. Ví dụ như một nhà đầu tư với số cổ phần tăng dần trong thời gian 3-5 năm họ có được lợi nhuận và rút vốn gốc để mua một căn hộ ưng ý, sở hữu nhóm tài sản,... Tức là xã hội hoá đầu tư chuyên nghiệp với mô hình đa chủ thể bao gồm: Nhà đầu tư vốn + Nhà kinh doanh chuyên ngành + Nhà quản lý sử dụng tài sản vật chất; chuỗi giá trị gia tăng được tính toán từ khi xây dựng dự án, sử dụng các công ty tư vấn, giám sát đầu tư, các công ty kiểm toán độc lập.
-Tất cả mọi người cần nhìn nhận thị trường với một niềm tin dài hạn theo nguyên tắc các dòng sông đều chảy thì sự dịch chuyển vốn cần cân nhắc thời điểm, danh mục lựa chọn, liều lượng thay cho hành động tức thì cuồng nhiệt đầy may rủi./.
Hội chứng “Cuồng tiền”
TCCT
Năm 2007, chúng ta chứng kiến và vượt qua cơn “hồng thủy lạm phát”, tình huống đó có lặp lại vào cuối năm 2010 - 2011? Giới thiệu bài phát biểu của TS. Nguyễn Mạnh Hùng trong buổi tọa đàm tại Công ty