Ảm đạm làng nghề “trẻ”
Tại trụ sở UBND xã, anh Đàm Văn Phong - Phó Chủ tịch không giấu được nỗi buồn thông báo: Hiện 60% lò gốm trong xã đã nằm bất động, hơn 20 lò bị dỡ bỏ hoàn toàn, chỉ còn khoảng 30 lò đang hoạt động cầm chừng. Có mối đặt hàng thì làm, hết hợp đồng cả chủ lẫn thợ nghỉ dài. Cả xã có 7.024 nhân khẩu, thì 1.000 lao động phải đi làm thuê ở địa phương khác.
Dẫn chúng tôi đi xem những lò gốm đắp sừng sững trong sân có thời là phương tiện mưu sinh cho làng, ông Đàm Văn Ngọc, một chủ lò thở vắn than dài: Mấy năm trước anh về đây vào dịp giáp Tết, hàng hóa rậm rịch đến đêm khuya, nhà tôi 5 lao động có khi tận khuya mới ăn cơm. Giờ thì hàng hóa ế ẩm, làm ra cất đi nhiều hơn bán. Anh Lê Hồng Thược, người làm gốm từ năm 1987 cho biết, từ đầu năm đến nay, mới chỉ làm được 20 chuyến, giảm quá nửa so với trước. Gần một tháng nay, không có hợp đồng, lò gốm của gia đình ngừng hoạt động.
Nghề gốm Xuân Quan hình thành được hơn 20 năm, khởi đầu từ những người dân sang Bát Tràng làm thuê, rồi học nghề về làng mở lò. Với lợi thế giá nhân công rẻ, gốm Xuân Quan không cầu kỳ về mầu sắc, nhưng có độ bền cao, nên sản xuất ra đến đâu tiêu thụ đến đó. Thời kỳ cao điểm, cả xã có 200 lò, ngày đêm khói tỏa nghi ngút, gốm sản xuất ra không kịp bán. Thậm chí, người mua còn giục dỡ hàng ngay khi lò chưa kịp nguội. Chỉ cần có đầu tư kinh phí 40 - 50 triệu đồng xây lò nung, mua khuôn và nguyên vật liệu là có thể sản xuất ngay, lãi khoảng 800.000 đồng một mẻ. Vậy nên tuy non trẻ, nhưng làng nghề mới này đã tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn người. Có lúc, người Xuân Quan xóa được đói nghèo nhờ gốm. Không chỉ các chủ hộ, mà cả những người làm thuê “chạy” nguyên liệu cũng kiếm đủ tiền. Theo báo cáo, hiện xã có 75% hộ khá giàu, nghề thủ công dịch vụ chiếm 50% cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân gần 400USD/người/ năm. Cùng với nghề tái chế nhựa Như Quỳnh (Văn Lâm), chạm bạc Phù ủng (Ân Thi), gốm Xuân Quan nổi lên như một điển hình của Tỉnh, thu hút khách từ các địa phương đến học hỏi kinh nghiệm, nhiều doanh nhiệp nước ngoài đã tìm về đặt hàng. Không trông chờ vào mấy sào ruộng, người dân Xuân Quan cho các xã khác thuê lại đất canh tác để tập trung làm gốm. Huyện Văn Giang còn quy hoạch cho Xuân Quan 1 KCN làng nghề rộng 7 ha, để giúp các hộ có mặt bằng thoải mái phát triển. Nhưng cũng không mấy ai ngờ...
Treo lò gần một năm nay, ông Phan Văn Dần là người thấm thía cái thua thiệt của chủ lò sau nhiều năm gắn bó. Ông giải thích ngắn gọn cho chúng tôi nguyên cớ: “Tư thương ép giá, lại chậm trả tiền vốn. Vay lãi như nhà tôi, không thể đua được các đối thủ cạnh tranh khác. Thêm nữa, giá nguyên liệu và nhiên liệu để sản xuất gốm hiện nay tăng rất cao, 360.000 đồng/tấn than, 160.000 đồng/tấn đất thô. Chẳng may “gẫy” một mẻ là mất đứt 7 - 8 triệu đồng. Thôi đành bỏ nghề....
Đi về đâu gốm Xuân Quan?
Xuân Quan có vị trí cận kề trung tâm gốm sứ nổi tiếng Bát Tràng, đó là thuận lợi lớn. Có người nhận định, chỉ cần nhận hàng gia công cho Bát Tràng thôi, Xuân Quan cũng đủ khá. Xưa nay, trong tiến trình thịnh suy của các làng nghề, phố nghề, không hiếm có những làng nghề “trẻ”, sau khi tiếp thu công nghệ, đã tận dụng lợi thế để cạnh tranh với làng nghề gốc. Ngay trong xã Bát Tràng, người dân ưa chuộng mua bán tại thôn Giang Cao, với các xưởng gốm rộng rãi, hiện đại, hơn là len lỏi vào sâu làng cổ Bát Tràng để tìm hiểu về các “giai điệu gốm” cổ kính. Tuy nhiên, “giấc mơ Giang Cao” đã không lặp lại với Xuân Quan. Giai đoạn đầu, người Xuân Quan đã tự ý thức được “cái gì Bát Tràng không làm thì Xuân Quan làm”, tận dụng lợi thế, Xuân Quan đã giành được một thị phần đáng kể trong thị trường gốm. Nhưng dần dần, vai trò “vệ tinh” của Xuân Quan không được đảm bảo.
Khi các lò gốm ở Bát Tràng chuyển sang công nghệ “lò ga”, để làm hàng gốm mỹ nghệ, Xuân Quan vẫn kiên trì chơi hàng “tiểu ngạch” công nghệ cũ. Đương nhiên, hàng từ các lò thủ công không bền đẹp, tổn thất cũng lớn. Năm 1997, nhiều chủ gốm ở Bát Tràng đã đầu tư xây dựng trang web, chào hàng trên mạng, rồi thành lập các Công ty để có pháp nhân làm ăn lớn. Còn Xuân Quan, sau 7-8 năm vẫn không có một tổ hợp, công ty nào đứng ra làm “bà đỡ”, bao tiêu sản phẩm cho làng nghề. Đây cũng là tình trạng chung của hơn 60 làng nghề ở Hưng Yên. Anh Đàm Văn Hưng, một trong những chủ lò lớn nhất của Xuân Quan kể chuyện: Năm 2002, nhà anh có khách Hàn Quốc đến mua trực tiếp, mỗi tháng được 2.000 cặp chậu hoa sứ, thắng lớn. Bẵng đi một năm nay, không thấy vị thương gia người Hàn quay lại. Hỏi ra mới biết, ông ta đã chuyển sang mua hàng của các Công ty “đại gia” gốm Hamico, Quang Vinh ở Bát Tràng. Anh nói, với đồ gốm sứ, nơi nào nhận được mối hàng xuất khẩu là sống. Giờ chúng tôi làm gốm để cất đi nhiều hơn bán. Dịp Seagames vừa rồi, người Bát Tràng dành tiền của để làm triển lãm gốm sứ truyền thống, thu hút khách nên mình thua thiệt cũng phải”.
Trong khó khăn, người Xuân Quan vẫn gắng gượng, xoay sang những nghề khác để duy trì cuộc sống. Hộ anh Đàm Văn Hưng chuyển sang nghề sứ, hoa sen phục vụ thờ cúng vẫn đảm bảo việc làm cho 4 - 5 công nhân. Bà Lê Thị Lợi chuyển làm hàng bát sứ, mỗi tháng cũng bán được 2 vạn sản phẩm. Tuy nhiên, họ khẳng định, chỉ cần thêm vài người trong xã cùng làm hàng này là cung vượt cầu. Bà Lợi thừa nhận, dẫu biết một cái bát hàng mỹ nghệ lãi gấp vài chục lần cái bát thường của tôi, nhưng bảo chuyển sang làm hàng kỹ thuật cao thì chắc không kham được.
Còn nhớ, tại Hội thảo Phát triển làng nghề gốm sứ Hưng Yên do Tổng công ty Sành sứ, Thủy tinh công nghiệp tổ chức tháng 9 năm 2002, đại diện doanh nghiệp đã đưa những điều khoản hấp dẫn cho dự án gốm Xuân Quan. Tổng công ty sẽ cung cấp nguyên vật liệu nhập ngoại, đầu tư công nghệ nung đốt, tổ chức quảng bá giới thiệu sản phẩm, thành lập công ty cổ phần và đào tạo nâng cao tay nghề cho 140 lao động địa phương. Tóm lại, gốm Xuân Quan sẽ khắc phục những manh mún tự phát của làng nghề, để trở thành một tổ hợp hùng hậu với vai trò không chỉ kinh doanh, mà còn cả phục vụ “nghiên cứu ứng dụng”, “du lịch”...
Nhưng rồi, Tổng công ty này giải thể, những giải pháp vẫn chỉ dừng lại ở ý tưởng, chưa có điều kiện để thực thi. Vẫn lời ông Đàm Văn Ngọc, một chủ lò gốm: “Dẫu công nghệ lò ga có đưa về tận làng, thì chi phí lắp đặt 200 triệu/lò, dân chúng tôi sao có đủ tiền”. Đã ghé làng Xuân Quan nhiều dịp, nhưng lần này chúng tôi trở về, hành trang mang theo có cả tâm huyết của người dân làng gốm. Bao giờ làng gốm Xuân Quan mới trở lại thời Hoàng Kim ngày xưa. Câu hỏi thật không dễ trả lời.
Hưng Yên - ảm đảm lửa lò gốm Xuân Quan
TCCT
Nằm sát làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), gốm Xuân Quan (Văn Giang) một thời là niềm tự hào của nghề thủ công Hưng Yên. Người ta kỳ vọng, gốm Xuân Quan sẽ phát triển thành một “thương hiệu” như Bát Tràng