Tóm tắt:
Tín dụng ngân hàng thương mại là một kênh dẫn vốn quan trọng góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Vì vậy, bài viết nhằm mục tiêu đề xuất khuyến nghị để huy động vốn tại các ngân hàng thương mại vừa đáp ứng mục tiêu kinh doanh của ngân hàng vừa góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và những năm tiếp theo. Theo đó, huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản, tạo tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ khóa: huy động vốn, ngân hàng thương mại, tăng trưởng kinh tế, kinh doanh.
1. Đặt vấn đề
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong suốt nhiều thập kỷ qua đã ngày càng khẳng định vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, thúc đẩy hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và khẳng định vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo thời gian, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng mà nòng cốt là ngân hàng thương mại (NHTM) đã ngày càng có đóng góp lớn hơn vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, bởi mọi hoạt động của ngân hàng luôn triển khai bám sát chủ trương, quyết định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về tái cơ cấu Các Tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu và chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đã được phê duyệt tại các Quyết định cụ thể như sau:
Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015”.
Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”.
Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”.
Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 về “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về “Thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD”.
Với chức năng, nhiệm vụ quy định tại Điều 2 và Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 16/6/2010 là “quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối nhằm nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, hàng năm Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ra quyết định ban hành “Kế hoạch hành động của ngànhNngân hàng” để triển khai các chủ trương, chính sách và quyết định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
Hành lang pháp lý trên đã “mở đường” cho hệ thống NHTM Việt Nam không ngừng hoàn thiện và phát triển từ mô hình tổ chức, quản trị điều hành đến nội dung nghiệp vụ. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, tác giả tập trung vào hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng góp phần tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 2020 - 2024, từ đó đề xuất một số khuyến nghị để huy động vốn tại các NHTM vừa đáp ứng mục tiêu kinh doanh của ngân hàng vừa góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 và những năm tiếp theo.
2. Phân tích tình hình huy động vốn và tín dụng ngân hàng tại Việt Nam
2.1. Khái quát bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước giai đoạn 2020 - 2024
Một là, bối cảnh tình hình quốc tế.
Đại dịch Covid-19 bắt đầu từ tháng 12/2019 đã được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá trong báo cáo “Viễn cảnh toàn cầu” là “Đại phong tỏa”, cụ thể hơn là cuộc khủng hoảng lớn nhất thế giới phải đối mặt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II và là thảm họa kinh tế lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả lựa chọn trình bày, phân tích ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tại một số quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc.
Thái Lan là quốc gia chịu cú sốc lớn bởi đại dịch Covid-19, năm 2020, khi GDP giảm 6,1% do đóng cửa du lịch và chuỗi cung ứng đình trệ. Đáng lưu ý, tín dụng ngân hàng Thái Lan năm 2020 vẫn tăng khoảng 5,1% (so với 2,0% năm 2019), tức chính phủ Thái cũng khuyến khích các ngân hàng cho vay hỗ trợ doanh nghiệp. Việc GDP rơi mạnh trong khi dư nợ tín dụng vẫn tăng làm tỷ lệ tín dụng/GDP của Thái Lan tăng vọt từ ~143% lên 160%. Điều này tương tự tình huống “mẫu số GDP giảm khiến tỷ lệ nợ tăng” từng xảy ra ở nhiều nước khi khủng hoảng.
Giai đoạn 2021 - 2022, kinh tế Thái Lan phục hồi rất chậm (2021 chỉ +1,5%, 2022 khoảng +2,8%) do nước này phụ thuộc du lịch quốc tế, đến năm 2022 mới mở cửa hoàn toàn. Tín dụng Thái Lan giai đoạn này tăng trưởng thấp (khoảng 6-8%/năm), phản ánh cả nhu cầu vốn yếu lẫn chính sách thận trọng của Ngân hàng Thái Lan. So với Việt Nam, có thể thấy, tín dụng ở Thái Lan tăng chậm hơn nhiều, nhưng tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Thái vẫn cao hơn Việt Nam. Điều này hàm ý khu vực tài chính Thái Lan đã phát triển ở mức bão hòa hơn, tăng trưởng kinh tế của Thái không thể dựa thêm vào “bơm” tín dụng vì dư nợ/GDP đã rất cao, nên cần các động lực khác như cải cách năng suất và chuyển đổi cơ cấu ngành. Thực tế, kinh tế Thái Lan giai đoạn 2020 - 2024 tăng bình quân gần 2%/năm, cho thấy hạn chế của mô hình tăng trưởng trước đây và dư địa chính sách tiền tệ hữu hạn.
Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đối với nền kinh tế Indonesia thể hiện tập trung vào ngành Du lịch, cụ thể:
- Dữ liệu thống kê của Hiệp hội Nhà hàng và Khách sạn Indonesia (PHRI) cho thấy, lĩnh vực dịch vụ ăn uống và lưu trú giảm 11,86% so với cùng kỳ năm 2019. Khoảng 78,5% người lao động trong các khách sạn tại Indonesia bị mất việc do không có khách du lịch lưu trú;
- Cơ quan Thống kê Indonesia (BPS) cho biết, ngành du lịch nước này gặp rất nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19; lượng khách du lịch nước ngoài trong tháng 10/2020 mặc dù đã tăng nhẹ 4,57% so với tháng 9/2020 với 158.200 lượt khách nhưng vẫn giảm 88,25% so với cùng kỳ năm 2019. Ước tính đại dịch Covid-19 đã gây thiệt hại cho ngành du lịch hơn 100 nghìn tỷ IDR (khoảng 7 tỷ USD).
Từ năm 2021 trở đi, Indonesia phục hồi khá nhanh với GDP tăng 3,7% năm 2021 và hơn 5% trong các năm 2022 - 2023. Điều thú vị là dù GDP tăng tốt, tín dụng ở Indonesia không tăng quá mạnh; đến 2023 tỷ lệ tín dụng/GDP mới khoảng 45-50%. Điều này gợi ý, Indonesia dựa nhiều vào các nguồn vốn phi tín dụng (đầu tư trực tiếp nước ngoài, thị trường chứng khoán, tài chính vi mô...) để thúc đẩy tăng trưởng, hoặc hiệu quả sử dụng vốn tín dụng cao hơn.
Indonesia cho thấy một mô hình tăng trưởng ít phụ thuộc vào ngân hàng hơn; trong nhiều năm, tỷ lệ tín dụng/GDP của Indonesia chỉ dao động 35-40% thuộc nhóm thấp nhất khu vực (do người dân Indonesia sử dụng nhiều vốn tự có và kênh phi chính thức, thị trường vốn phát triển hơn). Năm 2020, Indonesia suy thoái nhẹ với GDP giảm 2,1%, tín dụng gần như đi ngang (tỷ lệ tín dụng/GDP tăng nhẹ từ 37,8% lên 38,7% chủ yếu do GDP giảm).
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, với chính sách "Zero Covid" nhưng không tránh khỏi tác động, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, tổng thiệt hại đối với nền kinh tế ước khoảng 1.380 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 196 tỷ USD) trong tháng 1 và 2/2020 do cả 3 động lực tăng trưởng là tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu đều sụt giảm mạnh. Tín dụng Trung Quốc (tính theo dư nợ tín dụng tư nhân/GDP) tăng vọt, từ ~165% GDP năm 2019 lên 182% GDP năm 2020, tức tổng dư nợ tăng nhanh hơn nhiều so với quy mô nền kinh tế, nhờ đó năm 2021 GDP Trung Quốc bật tăng thêm khoảng 2% khi các biện pháp phong tỏa được gỡ bỏ. Tuy nhiên, hệ quả của việc mở rộng tín dụng mạnh là áp lực rủi ro “nợ tín dụng”, bởi tỷ lệ tín dụng/GDP của Trung Quốc đã cao (trên 150%) nay càng cao hơn (gần 180%), vượt xa ngưỡng cảnh báo 100% như nghiên cứu Arcand et al, điều này góp phần giải thích vì sao giai đoạn 2022 - 2023, kinh tế Trung Quốc tăng chậm lại (GDP 2022 chỉ 3,0%, 2023 ~5,2%).
Tóm lại, hệ lụy của đại dịch Covid - 19 đối với kinh tế toàn cầu đã làm bộc lộ rõ những rủi ro khi chuỗi cung ứng các sản phẩm, thiết bị thiết yếu bị gián đoạn do mạng lưới chuỗi cung ứng trải rộng toàn cầu, vấn đề lưu thông hàng hóa, dịch vụ và lao động toàn cầu “đảo lộn”, không còn như trước khiến cho mọi hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư không thể thông suốt và đạt hiệu quả. Theo báo cáo của Nhóm Ngân hàng Thế giới, năm 2020, GDP toàn cầu giảm 5,2%, là mức suy thoái sâu nhất trong 8 thập niên (1940 - 2020). Trong số 14 đợt suy thoái toàn cầu, đợt suy thoái do đại dịch Covid-19 gây ra được đánh giá đứng thứ tư về độ sâu, khiến tỷ trọng thương mại hàng hóa năm 2020 giảm từ 13% - 32%.
Hai là, bối cảnh tình hình trong nước.
Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam đang diễn ra ngày càng sâu rộng (độ mở của Việt Nam cao gấp 1,5 lần Thái Lan và gấp 5 lần Trung Quốc). Theo đó, đại dịch covid-19 vừa ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến Việt Nam với những hệ lụy, như: (i) Gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất, kinh doanh bị trì trệ, do gặp “khó khăn kép” (cả đầu vào lẫn đầu ra) như ngành điện tử, da giày, dệt may...; (ii) Số lượng doanh nghiệp mới thành lập cũng giảm ở hầu hết các lĩnh vực, mức giảm mạnh nhất bao gồm các lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi, giải trí (giảm 23%), lĩnh vực bán buôn, bán lẻ (giảm 11,8%), dịch vụ vận tải kho bãi (giảm 37,9%); (iii) Đứt gãy nguồn “cung - cầu” lao động việc làm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tháng 4/2020, khoảng trên 30 triệu người lao động (tương đương khoảng 50% lực lượng lao động) bị ảnh hưởng trong đợt giãn cách cao điểm. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong quý II/2020, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tăng 33%, thu nhập bình quân của người lao động tính theo mức trung bình giảm 5%. Tháng 6/2021, tỷ lệ lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,4% so với tháng 5-2021 và giảm 1% so với cùng thời điểm năm 2020.
Tóm lại, thành tựu đạt được trong phòng chống Covid - 19 đã khẳng định sự sáng suốt ứng phó kịp thời chính xác của Việt Nam trước diễn biến bất ngờ, phức tạp chưa có tiền lệ đã xảy ra; bảo đảm mục tiêu “Vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội”.
2.2. Tình hình huy động vốn của các NHTM giai đoạn 2020 - 2024
Trong bối cảnh tình hình kinh tế toàn cầu và diễn biến tình hình kinh tế - xã hội tại Việt Nam như trình bày và phân tích khái quát ở trên, hoạt động huy động vốn tại các NHTM Việt Nam thu được kết quả tích cực, bởi các NHTM đã nhận thức ngày càng rõ nét hơn phương châm kinh doanh “đi vay để cho vay”. Từ đó đã tập trung phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn chủ yếu bao gồm: uy tín ngân hàng, chính sách lãi suất tiền gửi, hình thức huy động vốn, chính sách marketing, khả năng sinh lời và chất lượng dịch vụ của ngân hàng, nhận thức của người gửi tiền, lạm phát, tình hình kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.
Kết quả huy động vốn tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2020 - 2024 như Hình 1.
Hình 1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng huy động vốn

Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1 cho thấy, quy mô huy động vốn tăng liên tục qua các năm, bình quân huy động vốn/năm của giai đoạn 2020- 2024 đạt 12,20 triệu tỷ VND, mức tăng quy mô huy động vốn bình quân/năm đạt 1,17 triệu tỷ VND; trong đó năm 2023 có mức tăng và tốc độ tăng cao nhất, so với năm 2022 tăng 1,68 triệu tỷ VND (+ 14,21%). Điều này được giải thích bởi một số nguyên nhân chủ yếu như: ảnh hưởng của đại dịch vovid- 19 và biến đổi khí hậu gây thời tiết cực đoan, lũ lụt… tác động đến sản xuất kinh doanh và sức khỏe, đời sống nhân dân.
Năm 2020, công nghiệp tăng trưởng thấp nhất trong 10 năm, đạt 3,36%; dịch vụ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch bệnh, tăng trưởng 2,34%; vận tải tăng trưởng âm (-1,88%), đặc biệt dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 3,8 triệu lượt người, giảm 78,7% so với năm 2019; lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên giảm 1,2 triệu người so với năm 2019.
Năm 2023, ghi nhận sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau đại dịch Covid- 19, ngành Nông-Lâm-Thủy sản tăng 3,83%, mức tăng cao nhất từ năm 2019, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế; công nghiệp có sự tăng trưởng thấp và dịch vụ duy trì đà tăng trưởng; tỷ lệ dựa trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND được duy trì ở mức 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, 1% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Kết quả đạt được về huy động vốn trên đây còn có nguyên nhân quan trọng là các NHTM đã ngày càng phát triển hình thức huy động vốn online với mức lãi suất có thể cao hơn từ 0,1 - 0,5%/ năm so với hình thức gửi tại quầy. Huy động vốn online rất có ý nghĩa trong bối cảnh đại dịch Covid-19, vừa đem lại lãi suất cao cho khách hàng vừa tiết kiệm chi phí vận hành cơ sở hạ tầng, ngân hàng có thể huy động khách hàng gửi tiền tiết kiệm linh hoạt hơn mà không cần đến trực tiếp chi nhánh; khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiết kiệm online giúp ngân hàng tối ưu chi phí mua sắm trang thiết bị, cải thiện hạ tầng phục vụ như bàn ghế, máy in, máy scan, máy tính,…; Tiết kiệm chi phí nhân sự, bởi gửi tiết kiệm online, quy trình mở tài khoản, gửi và rút tiền trở nên đơn giản hơn, cho phép khách hàng tự thực hiện tại nhà mà không cần sự hỗ trợ từ lượng lớn cán bộ ngân hàng. Thông qua website hoặc hotline, khách hàng có thể tìm hiểu mọi thông tin về dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng và đơn giản nhất; tạo lợi thế cạnh tranh trong cuộc đua số hóa, bởi khuyến khích khách hàng gửi tiết kiệm online không chỉ giúp tối ưu chi phí hiện tại mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng trong cuộc đua số hóa. Ngân hàng có tốc độ số hóa nhanh sẽ giành được ưu thế trong việc tiếp cận và phục vụ khách hàng hiệu quả hơn, có thể chuyển hướng nguồn lực từ vận hành hệ thống sang các hoạt động thu hút khách hàng, trong đó có việc cải thiện lãi suất cho các sản phẩm gửi tiết kiệm online.
Bên cạnh đó, lãi suất huy động vốn được các NHTM điều chỉnh kịp thời theo tín hiệu thị trường, đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh tín dụng; đồng thời tuân thủ đúng quy định, không vi phạm Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ.
Thực tế cho thấy, các NHTM có sự tham gia vốn của Nhà nước thường có lãi suất huy động vốn thấp hơn các NHTM tư nhân. Tình hình biến động lãi suất huy động vốn theo Quý trong 3 năm (2022 - 2024) thể hiện qua Hình 2.
Hình 2: Lãi suất huy động vốn theo quý từ năm 2022 - 2024

Nguồn: Tác giả tổng hợp
Diễn biến tình hình lãi suất huy động vốn qua hình trên cho thấy, lãi suất huy động tăng mạnh vào cuối năm 2022, đầu năm 2023 và giảm dần; đến cuối năm 2024, ngành Ngân hàng đã chủ động giảm lãi suất bình quân so với năm 2023, mức giảm lãi suất bình quân của hệ thống ngân hàng là 1,1%. Đặc biệt, có NHTM cổ phần Nhà nước đã hạ lãi suất xuống 1,6%, tạo điều kiện quan trọng để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh và cải thiện chất lượng cuộc sống.
2.3. Tình hình tín dụng của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2020 - 2024
Hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2020 - 2024 là phù hợp và phản ánh rõ nét những biến động kinh tế vĩ mô trong nước, trong khu vực và quốc tế, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế sau đại dịch. Trong bối cảnh đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã ban hành các văn bản pháp quy nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng của đại dịch Covid như: Ngày 24/2/2020, NHNN ban hành Văn bản số 1117/NHNN-TD về việc triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng do ảnh hưởng của dịch Covid-19; ngày 13/3/2020 ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN “về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (Covid-19); được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021. Kết quả đạt được về tăng trưởng quy mô và tốc độ tín dụng của NHTM thể hiện qua Hình 3.
Hình 3: Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng

Nguồn: Tác giả tổng hợp
Năm 2020, bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp, tiềm ẩn nhiều rủi ro nên các NHTM đã tùy vào thời điểm để lựa chọn khẩu vị thích hợp, tập trung cho vay một số lĩnh vực tiềm năng có cơ hội tăng trưởng như hàng tiêu dùng, bán lẻ, điện mặt trời; tập trung tài trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi động lực đến từ khối này đang tăng mạnh nhờ Hiệp định EVFTA và Hiệp định RCEP, bởi lợi ích của Việt Nam từ RCEP sẽ lớn hơn, GDP và xuất khẩu có thể tăng tương ứng 1% và 4,3% so với trường hợp không có RCEP.
Tiếp đà tăng trưởng tín dụng trong 3 năm (2021 - 2023) với quy mô tăng bình quân/năm đạt 1,51 triệu tỷ VND (+ 13,37%), năm 2024 đánh dấu sự tăng trưởng tín dụng ấn tượng của các NHTM, so với năm 2023 quy mô tăng trưởng 1,88 triệu tỷ VND (+ 15,08%), cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân/năm (đạt 13,8%); so với năm 2020, quy mô tăng trưởng tín dụng là 6,06 triệu tỷ VND (+ 63,44%). Nguyên nhân chủ yếu do ngành Ngân hàng đã quyết liệt hơn trong triển khai đồng bộ hệ thống giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế với những điểm nhấn như sau:
- NHNN tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp trong năm 2024, phù hợp với diễn biến, tình hình trong và ngoài nước, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với kiểm soát lạm phát, từ đó đã định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch Covid- 19. Kết quả, mặt bằng lãi suất cho vay bình quân đối với những khoản mới ở mức khoảng 6,65%/năm, giảm 0,59%/năm, trong đó nhóm Big 4 (NHTM có vốn nhà nước) giảm khoảng 1% so với cuối năm 2023; điều này cho thấy, các TCTD sẵn sàng chủ động đồng hành, chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và khách hàng vay vốn;
- Điều hành tăng trưởng tín dụng được đổi mới, tạo sự chủ động cho các TCTD trong tăng trưởng tín dụng, cụ thể ngày 31/12/2023, NHNN đã giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, NHNN chủ động theo dõi và điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ, các TCTD không cần đề nghị điều chỉnh. Với diễn biến lạm phát được kiểm soát tốt dưới mức mục tiêu, NHNN đã hai lần chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD (vào ngày 28/8/2024 và ngày 28/11/2024) để kịp thời đáp ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh; đồng thời NHNN đã tăng cường thanh tra giám sát hoạt động tiền tệ, ngân hàng và các quy định về cấp tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ, trong đó bảo đảm tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh; hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro;
- Tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp như: (i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động cấp tín dụng với nhiều quy định mới, tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD và nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp; khách hàng có thể thực hiện vay vốn trên môi trường số mà không cần trực tiếp đến ngân hàng (cho vay bằng phương tiện điện tử), đơn giản hóa thủ tục vay vốn đối với các khoản cho vay có mức giá trị nhỏ bao gồm cả việc cấp tín dụng qua thẻ… tạo điều kiện thúc đẩy nhanh hơn quá trình thẩm định, phê duyệt tín dụng, giúp khách hàng tiếp cận các khoản vay nhanh chóng, thuận lợi hơn; (ii) Tổ chức 2 Hội nghị trực tuyến toàn Ngành (ngày 20/2/2024 và 19/6/2024) về “đẩy mạnh tín dụng ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”; Tích cực triển khai sâu rộng Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp bằng nhiều hình thức phù hợp (trao đổi, hội nghị,…), từ đó ngân hàng đã trực tiếp nắm bắt những khó khăn, vướng mắc liên quan đến khách hàng tiếp cận vốn vay và kịp thời xử lý, tháo gỡ, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ và các lĩnh vực là thế mạnh của từng địa phương; (iii) Triển khai có hiệu quả cao hơn cải cách thủ tục hành chính và chuyển đổi số ngành ngân hàng, phát triển các kênh bán hàng, sản phẩm, dịch vụ được số hóa; dồng thời tăng cường hoạt động truyền thông các cơ chế, chính sách cho vay; xây dựng, triển khai các chương trình giáo dục tài chính toàn diện trên truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân về các sản phẩm, dịch vụ tài chính; cảnh báo cụ thể những hệ lụy người dân cần phòng, tránh “tín dụng đen”.
3. Đánh giá mối quan hệ giữa huy động vốn và tín dụng, tăng trưởng GDP
Trong giai đoạn 2020 - 2024, mặc dù diễn biến vĩ mô trong và ngoài nước phức tạp, có những “cú sốc” khó lường nhưng hoạt động huy động vốn và tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục khẳng định là “huyết mạch” góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (GDP).
Hình 4: Quan hệ huy động vốn, tín dụng và tăng trưởng GDP
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Mặc dù quy mô huy động vốn trong giai đoạn 2020 - 2024 tăng trưởng liên tục qua các năm, nhưng tốc độ tăng trưởng không đều, năm 2022 có tốc độ tăng thấp nhất (7,92%), tốc độ tăng trưởng giảm mạnh năm 2024, từ 14,21% năm 2023 xuống 8,89%; song mức tăng bình quân huy động vốn/năm của cả giai đoạn đạt 1,17 triệu tỷ VNĐ tương đương tăng 9,59%; đáng chú ý là tốc độ tăng bình quân năm 2023 và 2024 cao hơn tốc độ tăng bình quân 2020 - 2022 (cao hơn 2,81%).
Trong giai đoạn 2020 - 2024, tình hình tăng trưởng tín dụng ngân hàng có diễn biến khá “tương đồng” như huy động vốn, nhưng quy mô và tốc độ tăng trưởng cao hơn, quy mô tín dụng bình quân/năm đạt 12,35 triệu tỷ VND; tốc độ tăng bình quân/năm đạt 13,80%; và có sự “bứt phá” năm 2024, đạt cao nhất là 15,08%.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2020 - 2024 lớn hơn huy động vốn nhưng về cơ bản các ngân hàng vẫn kiểm soát được chất lượng và tuân thủ quy định về huy động vốn và cấp tín dụng.
Tăng trưởng GDP giai đoạn 2020 - 2024 chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid 19 nên trong 2 năm 2020 - 2021 đạt mức thấp nhưng vẫn là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và có sự “bứt phá” năm 2022 và 2024; tốc độ tăng trưởng bình quân/năm đạt 5,13%; đáng chú là tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 đạt mức 5,05% (mức cao trên thế giới) và năm 2024 đạt 7,09% cao hơn 2023 là 1,37%.
Tóm lại, diễn biến tăng trưởng GDP giai đoạn 2020 - 2024 tạo niềm tin cho mục tiêu tăng trưởng 8% GDP năm 2025 và tăng trưởng “02 con số” những năm sau. Theo đó, tăng trưởng tín dụng cần đạt mức 16% năm 2025 và từ 18% đến 20% những năm tiếp theo gắn với kiểm soát chất lượng và huy động vốn vừa đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
4. Kết luận và khuyến nghị chính sách
Cơ hội lịch sử để Việt Nam bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” đã bắt đầu trong bối cảnh thế giới và trong nước đã, đang có nhiều thay đổi, biến động lớn, đó là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, xung đột Nga - Ukraine, chính sách thuế quan của Mỹ và cuộc cách mạng trong toàn hệ thống chính trị Việt Nam, sắp xếp tinh gọn bộ máy Chính phủ còn 17 bộ, ngành và 5 cơ quan trực thuộc; sắp xếp bộ máy, đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (còn 34 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và khoảng 5.000 xã/phường). Đứng trước cơ hội, thách thức mới, để ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, tác giả có một số đề xuất như sau.
Thứ nhất, không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng. Hành lang pháp lý luôn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Hoạt động ngân hàng có tính đặc thù, phức tạp nên hành lang pháp lý càng có ý nghĩa lớn hơn. Luật Các TCTD số 32/2024/QH15 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 đã giúp các TCTD, trong đó có NHTM tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh như “Cấm bán bảo hiểm không bắt buộc dưới mọi hình thức” (khoản 5 Điều 15); hay “… bổ sung quy định về xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng vốn vay, tài sản cho thuê tài chính” (Khoản 2 Điều 102); và “TCTD được chuyển nhượng tài sản đảm bảo là dự án bất động sản để thu hồi nợ” (Điều 200)…
Mặt khác, NHNN cần nhanh chóng hoàn thiện và ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành để triển khai Luật các TCTD như quy định tại khoản 2, khoản 4, Điều 38; điểm b, khoản 1, Điều 41; khoản 2, Điều 99; khoản 3, Điều 100…; đồng thời tiếp tục trình Chính phủ bổ sung, “luật hóa” một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 vào Luật Các TCTD năm 2024. Đối với hoạt động tín dụng: tập trung tháo gỡ hành lang pháp lý vấn đề xử lý nợ xấu, xử lý tài sản cho các NHTM. cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động tín dụng.
Thứ hai, tăng cường phối hợp hơn với các Bộ/ngành và địa phương, từ đó tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, người dân và các NHTM trong triển khai kinh doanh nói chung và cấp tín dụng nói riêng, bởi mỗi ngành/địa phương có những nét đặc thù, nên có thể gặp khó khăn khi triển khai các quy định chung.
Thứ ba, tăng cường thanh tra, giám sát các TCTD nói chung và NHTM nói riêng. Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN có ý nghĩa quan trọng, vừa giúp các NHTM tuân thủ quy định của pháp luật, kiểm soát rủi ro, vừa tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Trong bối cảnh 63 chi nhánh NHNN tại các tỉnh/thành trực thuộc NHNN Việt Nam vừa được sắp xếp, tinh gọn thành 15 NHNN khu vực, cần nhanh chóng kiện toàn mô hình tổ chức, bảo đảm hoạt động “ngay và thông suốt” không bị gián đoạn, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng tại mỗi khu vực và trong cả nước, góp phần tăng trưởng bền vững kinh tế địa phương và đất nước.
Thứ tư: cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số tích cực và mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng, từ đó tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động, mở rộng các sản phẩm ngân hàng qua kênh số, tăng cường giao dịch, kết nối và xử lý nhu cầu của khách hàng qua kênh số. Đối với hoạt động huy động vốn: giữ lãi suất ổn định và cạnh tranh lành mạnh về lãi suất giữa các ngân hàng. Đặc biệt chú ý khâu phòng ngừa, kiểm soát, xử lý rủi ro khi khách hàng giao dịch qua kênh số cho các NHTM.
Tài liệu tham khảo:
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019). Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và. ngân hàng số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019.
Đoàn Thanh Hà và Lâm Mỹ Hạnh (2022). Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến nền kinh tế thế giới và ứng phó của Việt Nam. Tạp chí Công Thương, Số 6, tháng 4.
Hà Thành (2020). Tín dụng năm 2020 tăng trưởng ở mức nào. Truy cập tạihttps://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tbnh/tbnh_chitiet.
Học viện Ngân hàng (2022). Tín dụng Ngân hàng. NXB Lao động, Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012). Quyết định về “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012). Quyết định về “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2017). Quyết định về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020). Công văn về việc triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 số 1117/NHNN-TD ngày 24/2/2020.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020). Thông tư Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2022). Quyết định về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025” số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 về “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”.
Ngô Thế Chi và cộng sự (2024). Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2023 và dự báo năm 2024. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3, tháng 2/2024.
Nguyễn Văn Tiến (2015). Toàn tập “Quản trị ngân hàng thương mại”. Sách tham khảo, NXB Lao động, Hà Nội.
Nhất Minh (2025). Kinh tế thế giới trước dịch bệnh Covid-19. Truy cập tại: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/820140/view_content.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010). Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017). Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2024). Luật Các Tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 ngày 18/01/2024.
Paul A. Samuelson, William D. Nordhaus (1997). Kinh tế học. Sách tham khảo, NXB Chính trị Quốc gia.
Capital mobilization strategies to support business objectives
and economic growth in Vietnamese commercial banks
Tran Khai Hung
Banking Academy of Vietnam - Bac Ninh Province Campus
Abstract:
Commercial bank credit plays a vital role as a financial conduit in supporting Vietnam's pursuit of sustained economic growth. This study emphasizes the importance of capital mobilization as a foundational activity for commercial banks, directly influencing their operational efficiency and ability to meet business objectives. By analyzing current trends and challenges in capital mobilization, the study proposes a set of recommendations aimed at enhancing the effectiveness of this process. These recommendations not only seek to strengthen the financial capacity of commercial banks but also contribute to the broader national economic growth targets set for 2025 and beyond.
Keywords: capital mobilization, commercial banks, economic growth, business.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 17/2025]