Với những ưu thế gần như tuyệt đối, mạng điện thoại di động Vinaphone phát triển cực kỳ nhanh, trong đó 2/3 là thuê bao trả trước. Năm 2001, trung bình mỗi tuần mạng này phát triển thêm từ 8 ngàn đến 10 ngàn thuê bao mà chủ yếu là thuê bao trả trước. Trong khi đó, dung lượng của hệ thống quản lý trả trước lúc đó (của hãng Comverse) chỉ đạt 600 ngàn thuê bao, dự kiến đến tháng 9/2001 sẽ hết số. Chính vì thế, ngay từ đầu năm 2001, Công ty GPC (đơn vị quản lý mạng) đã đề nghị đầu tư nâng cấp các tổng đài.
Tại hồ sơ mời thầu, điều kiện tiên quyết mà GPC nêu ra buộc các nhà thầu phải tuân thủ là “thời gian đưa hệ thống vào hoạt động trong tháng 9/2001”. Mỗi ngày, doanh thu của dịch vụ trả trước đạt tới 2,24 tỷ đồng, chậm ngày nào thiệt hại ngày ấy. GPC đã từng báo cáo VNPT “trong ba nhà thầu, chỉ có Siemens đáp ứng điều kiện này. Ericsson chậm một tháng, Acatel chậm hai tháng”. Mặt khác, GPC đã cảnh báo, Ericsson là nhà thầu đang vi phạm hợp đồng lắp đặt tổng đài MSC4 trước đó (chậm hai tháng). Ngoài ra, Ericsson cũng là nhà thầu không trình bày được giải pháp kết nối với hệ thống trả trước của hãng Comverse trị giá khoảng 10 triệu USD mà GPC mới đầu tư 1999.
Đó là chưa kể ở dung lượng 1,2 triệu thuê bao, giá của Ericsson cao hơn Siemens tới 7,3 triệu USD (tức là trên 100 tỷ đồng).
Thế nhưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị VNPT, đã không căn cứ vào kết quả xét thầu của tổ tư vấn, không căn cứ vào đề nghị của chủ đầu tư (GPC) vẫn ra Quyết định số 158 ngày 4/5/2001 chọn Ericsson trúng thầu. Trước mắt, có thể thấy hành vi chọn nhà thầu xếp hạng thấp nhất với giá cao nhất của ông chủ tịch Hội đồng quản trị VNPT đã gây thiệt hại hơn bảy triệu USD (khoảng 100 tỷ đồng), chưa kể những thiệt hại khác đã được báo trước (như khai thác chậm, lãng phí hệ thống đang sử dụng, chi phí thêm để mua thiết bị...).
Sự ưu ái khó hiểu
Sau khi hợp đồng được ký, phía VNPT đã đưa ra điều kiện đối với Ericsson là phải đưa hệ thống vào khai thác vào ngày 11/11/2001, nếu chậm hơn thì phải bồi thường và hủy hợp đồng.
Thế nhưng đến ngày 8/1/2002, hệ thống lN của Ericsson vẫn chưa kết nối được với các tổng đài của Siemens, chưa quản lý được thuê bao Hà Nội và chưa kết nối được với TP HCM. Đặc biệt, hệ thống này vẫn chưa tính cước được và chưa kết nối được với hệ thống quản lý hiện hành và nhất là đến thời điểm hiện nay (năm 2004), tính năng lN (khả năng chuyển vùng quốc tế) vẫn chưa thực hiện được (trong khi đây là mục tiêu đầu tư của dự án). Lẽ ra, với vi phạm nghiêm trọng như vậy, hợp đồng phải được hủy bỏ, song VNPT lại tiếp tục “nuông chiều” Ericsson bằng cách cho nhà thầu này thực hiện thêm ba dự án khác với trị giá khoảng 200 tỷ đồng.
Phía VNPT sẽ có cách giải thích về vấn đề trên, nhưng giải thích sao đây, khi mạng cũ phải “đắp chiếu”, trong khi yêu cầu của bài thầu là mạng mới phải đảm bảo cho mạng cũ hoạt động song song nhằm giảm giá thành?
Đúng là tiền chùa nên mới có kiều chọn thầu và “nuông” thầu đến như thế. Chỉ khổ những người dân đã nghèo đói, nay lại khổ thêm vì phải è lưng đóng thuế thêm và sử dụng dịch vụ với giá đắt do những kiểu làm ăn trên.
Nếu chúng ta không cải tiến cách quản lý, thì sẽ có không biết bao nhiêu kiểu làm ăn như trên còn xảy ra?
Khi quyêt đấu thầu bằng tiền chùa... và bỏ nhất, bỏ bét.
TCCT
Thanh tra nhà nước đã có kết quả thanh tra chín nội dung ở Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT). Đặc biệt, trong nội dung đấu thầu nâng cấp mạng Vinaphone để có tính năng thông minh (còn gọi tính