Kinh nghiệm kháng kiện qua vụ cá tra, basa và tôm

Theo tổng kết của Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT), doanh nghiệp chủ động tham gia kháng kiện; có một chiến lược kháng kiện chung cùng với sự gắn kết các doanh nghiệp dưới sự chủ trì của hiệp hội ngành h

Thống nhất chiến lược

Ngày 28/6/2002, Hiệp hội Chủ trại nuôi cá da trơn Hoa Kỳ (CFA) chính thức đệ đơn kiện doanh nghiệp nước ta bán phá giá cá tra, basa vào thị trường nước này. Chỉ 2 tuần sau đó, các doanh nghiệp có liên quan đã nhanh chóng thống nhất chiến lược kháng kiện, mức đóng góp phí, thuê luật sư và chọn Hiệp hội Chế biến, xuất khẩu thủy sản (VASEP) làm người đại diện cho mình, để kịp đến ngày 19/7, VASEP bắt đầu tham dự phiên điều trần đầu tiên trước Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC).

Theo chiến lược này, không kể 4 doanh nghiệp lớn, chiếm 75% lượng hàng cá tra, basa vào Mỹ là bị đơn bắt buộc theo chỉ định của Bộ Thương mại Mỹ (DOC), 13 doanh nghiệp khác của ta đã chấp thuận tham gia kháng kiện với tư cách là bị đơn tự nguyện. Đây được coi là thắng lợi hết sức căn bản khi doanh nghiệp nước ta ý thức được tầm quan trọng của việc chủ động tham gia và thống nhất được chiến lược kháng kiện ở cấp ngành hàng.

Ngay sau đó, 17 doanh nghiệp bị đơn bắt buộc và tự nguyện bước vào guồng quay của vụ kháng kiện thương mại quốc tế đầu tiên. Họ phải căng hết mình làm việc để có thể hoàn thành một “núi” công việc liên quan đến vụ kiện. Từ trả lời các câu hỏi của DOC về tính độc lập của nhà sản xuất, phân tích đặc điểm vật chất của cá tra, basa, thông báo số lượng hàng xuất khẩu vào Mỹ hàng tháng cho đến tính toán các nhân tố về dữ liệu sản xuất, quy trình sản xuất, lý giải chuyện chọn Bangladesh là nước thay thế để tính chi phí sản xuất v.v… và v.v…

Suốt hơn 10 năm, kể từ khi DOC công bố biên độ chống bán phá giá vào tháng 1/2003 và quyết định thực hiện rà soát hành chính hàng năm để tính biên độ bán phá giá, các doanh nghiệp nước ta tiếp tục củng cố các chứng lý về tính độc lập trong sản xuất; sẵn sàng hợp tác, cập nhật cho DOC về giá thành, giá bán cũng như các dữ liệu sản xuất, thương mại có liên quan. Vì thế, nếu biên độ chống bán phá giá mà DOC áp thuế lần đầu tiên ngày 27/2/2003 từ gần 40% đến trên 60%, thì qua các năm, biên độ này dần dần giảm xuống, nhiều doanh nghiệp hưởng mức thuế suất 0% và phần lớn các bị đơn bắt buộc, tự nguyện chịu dưới mức 25%.

Sử dụng mọi công cụ

Hơn 10 năm theo đuổi vụ kiện, các doanh nghiệp và đại diện là VASEP đã sử dụng mọi công cụ mà chính pháp luật Hoa Kỳ không thể chối bỏ. Ngày 27/1/2003, DOC công bố sơ bộ biên độ phá giá của các bị đơn tự nguyện và bắt buộc từ 37,94% đến 61,88%. Một ngày sau, doanh nghiệp nước ta đã yêu cầu DOC phải sử dụng phương pháp có tính đến quy trình, công nghệ nuôi cá khép kín. Ngày 27/2, DOC đã giảm biên độ bán phá giá xuống còn 31,45 - 41,06%.

Bên cạnh đó, được sự trợ giúp của các luật sư, các doanh nghiệp bị đơn nước ta nhiều lần giành thế chủ động trước nguyên đơn, như bác bỏ các văn bản giải trình của nguyên đơn hay yêu cầu DOC không dùng các đệ trình của nguyên đơn trong việc đưa ra kết luận điều tra, cũng như đề nghị DOC tạm hoãn công bố quyết định cuối cùng về áp thuế trong thời gian 135 ngày… Những đòi hỏi chính đáng của doanh nghiệp nước ta được DOC nhiều lần chấp thuận. Và khi DOC khăng khăng giữ quan điểm bảo hộ phi lý, ta đã sử dụng quyền kiện ngược lên WTO, mà điển hình là chúng ta đã thắng trong vụ kiện tôm.

Vĩ thanh

Có 4 điều đọng lại trong các vụ kháng kiện nêu trên: Thứ nhất, 4 bị đơn bắt buộc đầu tiên vào năm 2002 gồm Agifish, Cataco, Nam Việt, Vĩnh Hoàn, thì nay họ vẫn là những doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa hàng đầu vào Mỹ. Thứ hai, tất cả các doanh nghiệp bị đơn bắt buộc và tự nguyện trong vụ kháng kiện cá tra, basa và tôm đều bị áp thuế suất thấp hơn nhiều lần các doanh nghiệp không tham gia. Thứ ba, sản lượng cá tra, basa vào Mỹ năm 2003, khi DOC áp thuế chống bán phá giá gần 30 ngàn tấn, đến 2012 đạt 90 ngàn tấn. Thứ tư, sau khi DOC đột ngột thay đổi nước thay thế từ Bangladesh sang Indonesia, khiến mức thuế của doanh nghiệp nước ta tăng từ 20 - 45 lần, doanh nghiệp nước ta đã thống nhất kiện DOC lên ITC.

Bốn điều nói trên cho thấy, về cơ bản chúng ta đã ý thức được tầm quan trọng của việc tham gia kháng kiện, tự mình đòi công lý cho mình và phần nào làm chủ được cuộc chơi trong quan hệ thương mại quốc tế.

Nguyễn Văn - TCCT