Sự cần thiết phải ban hành Luật kế toán.
Kế toán là công cụ quan trọng để tính toán, xây dựng và kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện ngân sách Nhà nước, điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân; là công cụ để doanh nghiệp, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng kinh phí, tính toán kinh tế và kiểm tra, giám sát việc sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn.
Pháp lệnh Kế toán và Thống kê được ban hành ngày 20/5/1988 là cơ sở pháp lý cao nhất trong hoạt động kế toán và quản lý nhà nước về kế toán hiện nay. Qua hơn 14 năm thực hiện, Pháp lệnh Kế toán và Thống kê đã phát huy tác dụng. Tuy nhiên, trước yêu cầu quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, Pháp lệnh KT&TK đã bộc lộ một số hạn chế sau:
Pháp lệnh KT&TK chưa thể hiện đầy đủ vai trò, vị trí hoạt động kế toán trong nền kinh tế quốc dân, vì, không đảm bảo được hiệu lực pháp lý đầy đủ để thực hiện đúng vị trí, vai trò của hoạt động kế toán và không đồng bộ với hệ thống pháp lệnh hiện hành. Mặt khác, kế toán và thống kê là hai lĩnh vực tuy có quan hệ với nhau, nhưng có tính độc lập. Thống kê chỉ phục vụ quản lý vĩ mô, còn kế toán không chỉ phục vụ quản lý vĩ mô mà còn phục vụ quản lý vi mô, phục vụ việc đưa ra quyết định quản lý hàng ngày của đơn vị cơ sở.
Đối tượng áp dụng của Pháp lệnh (Phần kế toán) chưa bao quát, đầy đủ và toàn diện, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân, nhất là những hoạt động mới phát sinh trong thời kỳ đổi mới. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã hình thành và phát triển nhiều thành phần kinh tế, với trên 63.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hơn 3.000 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, 1,2 triệu hộ kinh doanh cá thể và hàng trăm nghìn tổ hợp chưa được Pháp lệnh KT&TK điều chỉnh. Ngoài ra, Pháp lệnh KT&TK cũng chưa bao quát hết một số lĩnh vực hoạt động thuộc kinh tế nhà nước như: thu, chi ngân sách, các tổ chức đầu tư tài chính nhà nước, quỹ dự trữ của nhà nước, tổ chức đầu tư tài chính nhà nước, quản lý tài sản quốc gia và các hoạt động xã hội hoá trong giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao như: trường bán công, dân lập, tư thục, phòng khám chữa bệnh, câu lạc bộ thể thao...
Nội dung công tác kế toán trong Pháp lệnh KT&TK không phù hợp với đòi hỏi của kế toán trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Những nội dung công tác kế toán hiện nay như chứng từ, hệ thống kế toán, sổ kế toán, báo cáo tài chính...chỉ nặng về yêu cầu quản lý của cơ quan nhà nước, đã trở nên không còn phù hợp với đòi hỏi phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị kinh tế. Chức năng quy định cho kế toán trưởng và cán bộ kế toán không còn phù hợp với cơ cấu đa thành phần kinh tế hiện nay, cần phải có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, trách nhiệm của người làm kế toán, người làm dịch vụ kế toán, người làm kế toán trưởng...
` Nhiều nguyên tắc, thông lệ quốc tế về kế toán đảm bảo cho kế toán Việt Nam hội nhập với kế toán khu vực và quốc tế chưa quy định trong Pháp lệnh KT&TK như: Chuẩn mực kế toán, nguyên tắc kế toán, kế toán tài chính, kế toán quản trị, kiểm toán báo cáo tài chính và vai trò của hội nghề nghiệp trong hoạt động kế toán...
Quan điểm chỉ đạo xây dựng Dự án Luật Kế toán
Theo quan điểm của Chính phủ về việc soạn thảo Luật Kế toán, có thể tóm tắt những yêu cầu cơ bản như sau:
Phải vừa bảo đảm tăng cường quản lý thống nhất kế toán trong nền kinh tế quốc dân, vừa bảo đảm kế toán là công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả các hoạt động kinh tế, tài chính trong cả nước, đồng thời bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành của doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa phải dự kiến được được xu hướng phát triển hoạt động kế toán trong tương lai.
Có tham khảo chọn lọc Luật Kế toán của các nước tiên tiến trên thế giới, nhưng phải giữ vững định hướng XHCN, không lệ thuộc và không bị lệ thuộc của nước ngoài.
Bố cục Luật Kế toán và những điều cần lưu ý
Dự án Luật Kế toán trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2, Khoá XI gồm 7 chương, 65 điều, cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung gồm 16 điều (từ Điều 1 đến Điều 16) quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng luật, nhiệm vụ, yêu cầu, các nguyên tắc kế toán chủ yếu, đối tượng kế toán, chuẩn mực kế toán, kế toán tài chính, kế toán quản trị, kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết và các chứng từ khác của kế toán.
Chương II: Nội dung công tác kế toán gồm 31 điều (từ Điều 17 đến Điều 47) quy định cụ thể nội dung công tác kế toán mà mọi đơn vị kế toán đều phải thực hiện.
Chương III: Tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế toán gồm 7 điều quy định về tổ chức bộ máy kế toán, trách nhiệm của người lãnh đạo đơn vị trong việc tổ chức bộ máy kế toán, tiêu chuẩn, điều kiện, quyền hạn, trách nhiệm của người làm kế toán, của kế toán trưởng, quy định những người được làm kế toán.
Chương IV: Hoạt động nghề nghiệp kế toán gồm 4 điều (từ Điều 55 đến Điều 58) quy định hành nghề kế toán, thuê làm kế toán, thuê làm kế toán trưởng, tiêu chuẩn, điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề, quyền tham gia tổ chức nghề nghiệp của đơn vị kế toán và người làm kế toán.
Đây là chương hoàn toàn mới có so với Pháp lệnh KT&TK, hoạt động kế toán là một nghề nghiệp độc lập; người hành nghề; tổ chức dịch vụ hành nghề kế toán phải theo các quy định về hành nghề kế toán. Việc đổi mới này hoàn toàn phù hợp định hướng đổi mới kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho hội nhập kế toán và mở cửa của dịch vụ tài chính kế toán như các cam kết của Chính phủ Việt Nam ký kết với nước ngoài.
Chương V; VI; VII quy định về quản lý Nhà nước, khen thưởng và xử lý vi phạm và điều khoản thi hành.
Một số vấn đề chưa thống nhất trong Dự án Luật Kế toán của đại biểu Quốc hội.
Tại Khoản 2, Điều 2 Dự án Luật Kế toán quy định: “Hộ kinh doanh, cá thể, tổ hợp tác thực hiện công tác kế toán theo quy định của Chính phủ”. Một số ý kiến cho rằng, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác cũng phải áp dụng đầy đủ các quy định về kế toán trong Luật như các đối tượng khác. Chính phủ cho rằng, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác là những đơn vị quy mô nhỏ, công tác kế toán đơn giản, chủ yếu phục vụ quản lý, điều hành của đơn vị và công tác quản lý thuế của cơ quan thuế, như vậy quy định như ở Khoản 2, Điều 2 là hợp lý. Qua những ý kiến trên chúng ta thấy, nhiều khi Chính phủ muốn giảm bớt phức tạp cho những đối tượng không cần quản lý, nhưng nhiều người “cứ thích hành” người khác.
Điều 18 của Dự án Luật, quy định về chứng từ được coi là chứng từ kế toán khi có đủ các điều kiện, nhưng có ý kiến nêu, cần phải thêm vào “chữ ký điện tử”. Về vấn đề này, Chính phủ không nhất trí vì chữ ký điện tử hiện nay vẫn còn đang tranh cãi ở các nước phát triển, nếu đưa chữ ký điện tử vào thì Luật không có tính khả thi.
Về tiêu chuẩn của kế toán trưởng, theo Điểm b, Khoản 1 của Điều 53 Dự án luật quy định:” Trình độ chuyên môn nghiệp vụ kế toán của kế toán trưởng phải từ bậc trung cấp trở lên và Khoản 3 Điều 53 còn quy định “Chính phủ quy định cụ thể tiêu chuẩn và điều kiện kế toán trưởng phù hợp với từng loại hình đơn vị kế toán”. Một số đại biểu QH đề nghị tiêu chuẩn chuyên môn kế toán của kế toán trưởng phải từ bậc đại học trở lên. Chính phủ giải thích, nếu đòi hỏi trình độ chuyên môn kế toán của kế toán trưởng từ bậc đại học thì kế toán trưởng cấp xã, huyện hoặc doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã thì không thể đáp ứng được. Xem ra, cách giải thích của Chính phủ hợp lý hơn.
Về quyền hạn của kế toán trưởng, Dự thảo lần này quy định theo hướng tăng quyền cho kế toán trưởng. Nhưng việc này đã gặp phải những phản ứng từ các đại biểu Quốc hội. Thí dụ:
Theo Điều 54 của Dự thảo thì:” Kế toán trưởng có các quyền như: có ý kiến bằng văn bản với người đại diện pháp luật của đơn vị kế toán về việc tuyển dụng thuyên chuyển, tăng lương, khen thưởng, kỷ luật của người làm kế toán, thủ kho, thủ quỹ”. Các ý kiến cho rằng, kế toán trưởng chỉ có thể tham mưu cho giám đốc, do đó thay từ “tham mưu” cho từ “có ý kiến bằng văn bản”; và vô hình chung, kế toán trưởng đã làm cả công tác tổ chức cán bộ thay cho Thủ trưởng đơn vị? Ban thi đua khen thưởng làm việc theo nguyên tắc tập thể, theo quy định này thì kế toán trưởng lại có “ý kiến”, thì hỏi như vậy có thoả đáng không? Như vậy, những điều tăng quyền cho kế toán trưởng như nêu ở trên đã bị phản đối gay gắt.
Dự thảo lần này còn quy định, kế toán trưởng có quyền từ chối thanh toán những khoản mà kế toán trưởng cho là chưa đúng với quy định của Nhà nước hoặc sai trái với pháp luật. Về vấn đề này, nhiều đại biểu đã lo lắng và cho rằng, chúng ta lại quay trở về thời kỳ trì trệ của thời bao cấp. Các đại biểu đã dẫn chứng, thời bao cấp trước kia, chúng ta có quy định cho kế toán trưởng rất nhiều quyền hạn đặc biệt như, các hợp đồng ký phải có kế toán trưởng ký mới thực hiện được, nhất nhất việc gì cũng phải có kế toán trưởng ký mới xong... Những qui định đó phần nào đã tạo ra sự trì trệ trong doanh nghiệp nhà nước, mà sau này đã phải thay đổi là, mọi việc do Thủ trưởng chịu trách nhiệm. Hơn nữa, có quyết định của Thủ trưởng mà kế toán trưởng cho là sai, nhưng thực tế chưa hẳn là sai, bởi vì kế toán trưởng không thể nắm được ý đồ chiến lược của Thủ trưởng và nguyên nhân vì sao lại có những quyết định đó. Nên chăng, chỉ cần quy định kế toán trưởng có quyền yêu cầu và bảo lưu ý kiến bằng văn bản về những vấn đề về nghiệp vụ kế toán mà không thống nhất với Thủ trưởng đơn vị là đủ.
Theo chúng tôi quy định như vậy thì không thống nhất trong Dự thảo. Lúc đầu quy định kế toán là một nghề và có quyền thuê kế toán trưởng, sau đó lại cho kế toán trưởng cái quyền phủ quyết quyết định của Thủ trưởng, và thực tế chưa bao giờ người làm thuê lại cãi lại “ông chủ”? Đây không phải lần đầu tiên khi chúng ta xây dựng văn bản pháp luật “tiền hậu bất nhất”.
Các đại biểu Quốc hội còn nêu nhiều băn khoăn về nhiều vấn đề khác như: thời hạn nộp báo cáo, báo cáo quản trị, kế toán trưởng doanh nghiệp nhà nước có được đi làm thuê cho các doanh nghiệp khác không...
Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XI chưa thông qua Luật Kế toán vì còn tiếp tục thảo luận, lấy ý kiến đóng góp trong kỳ họp tới.
Hy vọng, Luật Kế toán lần này sẽ là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo nguyên tắc thông thoáng nhưng chặt chẽ./.