Lực lượng khoa học của thời đại mới

Trên thực tế, lực lượng khoa học mới đã xuất hiện và phát huy tác dụng thúc đẩy sự phát triển đột phá trong hoạt động KH&CN thời gian qua. Người ta thấy rõ chân dung của nhà khoa học mới trong các doa

Hình thành lực lượng khoa học mới là quá trình phức tạp với những thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Thuận lợi bởi gắn kết với thực tế sẽ giúp giải quyết các mâu thuẫn trong hoạt động khoa học. Đó là mâu thuẫn độc đáo xuất hiện trong khoa học gần đây giữa “tri thức” và “sự hiểu biết”. Mâu thuẫn này xuất hiện do sự sùng bái các kết quả khoa học trong một số trường hợp và một số trường hợp khác là do “không tiêu hoá hết” khối lượng tri thức to lớn. Một mâu thuẫn nữa là trong nghiên cứu khoa học, chân lý thuộc về cá nhân hơn là tập thể, số ít hơn là số đông. Như V.I. Vecnatxki từng viết, trong mỗi bước tiến của nó, toàn bộ lịch sử khoa học chứng minh rằng, về những lời lẽ khẳng định thì cá nhân đúng hơn là tập thể các nhà khoa học, hoặc hàng trăm, hàng nghìn những những nhà nghiên cứu vẫn giữ quan điểm truyền thống. Hiệu quả của việc ứng dụng vào sản xuất là sự đánh giá tốt hơn nhiều so với dư luận của giới khoa học.

Mặt khác, mặc dù có nét văn hoá đặc thù, nhưng văn hoá của nhà khoa học khá đa dạng, biến đổi tuỳ theo các ngành nghề khác nhau. Theo A. Toffler: “Các nhà khoa học trong chuyên ngành có khuynh hướng gắn chặt với nhau với nghề riêng của họ, tự họ thành lập những ổ văn hoá thứ cấp nhỏ, nhờ đó mà họ có thể tìm sự đồng ý và uy tín, tìm sự hướng dẫn về những việc như ăn mặc, ý kiến chính trị và cách sống...”. Chính “văn hoá thứ cấp” này mở ra khả năng gắn kết giữa văn hoá nghiên cứu và văn hoá sản xuất - kinh doanh.

Quan tâm cả lý thuyết và thực nghiệm vốn là mong muốn chung của giới khoa học. Xem xét về Newton và Einstein, bên cạnh những nét riêng, người ta dễ dàng nhận thấy điểm chung nổi bật: cả hai đều là nhà lý thuyết điển hình, họ thực hiện những khám phá quan trọng nhất khi tuổi mới ngoài đôi mươi; và cả hai đều nỗ lực vươn tay về phía thực nghiệm. Newton chứng tỏ ánh sáng trắng là bản giao hưởng của các mầu. Ông phát minh ra thứ toán học mà ông cần. Einstein từng dùng hình học phi Euclide kì dị của Riemann và Gaus cho lý thuyết hấp dẫn hình học của mình. Chuyển động Brown khi mực tan trong nước hay hiện tượng quang điện cũng là đối tượng quan sát của ông. Nếu như trước kia, chỉ có một số ít người thực hiện được điều đó, thì ngày nay đã có điều kiện hơn để nhiều nhà khoa học thực hiện được ý  muốn của mình.

Về khó khăn, để khắc phục lối nghiên cứu hàn lâm, coi thường các tính toán kinh doanh của giới khoa học, cần có sự đổi mới tư tưởng. Khi ra đời khoa học thực nghiệm, các nhà khoa học đã phải tạo ra cho mình triết lý mới, đề cao sự tiến hoá và cải tạo thế giới của kỹ thuật và phê phán những lý luận kinh viện thuần tuý như là sự dậm chân tại chỗ. Chuẩn bị phát triển kỹ thuật trong cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, những nhà tư tưởng của Thế kỷ ánh sáng đã nêu lên khẩu hiệu: thành tựu đích thực của văn minh là từ những sáng chế kỹ thuật chứ không phải từ những suy tư thuần tuý triết học. Gắn kết chặt chẽ nghiên cứu khoa học với sản xuất hiện nay cũng chỉ có thể diễn ra thực sự  trên cơ sở các nhà khoa học được giải phóng về tư tưởng. Chẳng hạn, người ta thấy rằng, gắn kết nghiên cứu với sản xuất ở Scotland không chặt chẽ và hiệu quả bằng ở Mỹ là do các nhà khoa học ở đây không xác định cho mình trách nhiệm tham gia vào thương mại hoá kết quả nghiên cứu. Trong khi ở Mỹ, vấn đề tài chính nổi lên, thì ở Scotland, vấn đề hàng đầu là mâu thuẫn giữa tìm kiếm lợi ích và nghề nghiệp khoa học. Một trong các biện pháp giải phóng tư tưởng được nhiều nước áp dụng hiện nay là khuyến khích và phát triển tinh thần doanh nghiệp của toàn xã hội, trong đó có các nhà khoa học...

Vẫn có nhiều vấn đề thuộc về bản chất sự vật mà khoa học phải tập trung nghiên cứu và xu hướng thống nhất trực tiếp giữa nghiên cứu đi sâu vào bản chất của thế giới vật chất và nghiên cứu ứng dụng không phải bao giờ cũng thực hiện được. Khó khăn khác mà gắn kết nghiên cứu và sản xuất gặp phải là phân biệt rào chắn chức năng và phi chức năng giữa chủ thể nghiên cứu và sản xuất. Cụ thể, trong khi xóa bỏ rào chắn phi chức năng thì cần duy trì rào chắn chức năng. Hiệu quả của sự gắn kết phụ thuộc rất lớn vào sự phân định này. Cũng ví dụ so sánh Scotland và Mỹ, những phân tích đã chỉ ra trong số các nguyên nhân hạn chế doanh nghiệp kiểu spin - off ở Scotland có nguyên nhân như: nhà khoa học trở thành giám đốc điều hành, trong khi ở Mỹ nhà khoa học chỉ làm giám đốc kỹ thuật không thường trực; các doanh nghiệp được khuyến khích cắt và tách quan hệ với tổ chức sáng lập, trong khi ở Mỹ, các doanh nghiệp giữ quan hệ và tiếp nhận các ý tưởng và nhân lực từ viện và trường, đồng thời các tổ chức mẹ không gây áp lực hoặc can thiệp vào công tác quản lý doanh nghiệp. Tức là khách quan, vẫn có những cách biệt giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, sản xuất, vẫn cần có sự tích luỹ nhất định của nghiên cứu cơ bản trước khi tiến hành nghiên cứu cơ bản, của nghiên cứu khoa học trước khi ứng dụng vào sản xuất.

Ngoài ra, để nhà khoa học tham gia vào sản xuất, còn cần tới những điều kiện bên ngoài. Các nhà khoa học tham gia sản xuất thường thiếu vốn, thông tin thương trường, kinh nghiệm hoạt động kinh tế - vốn là những điều kiện quyết định hoạt động kinh doanh. Những khó khăn này chỉ có thể giải quyết bằng sự giúp đỡ tích cực từ bên ngoài với sự sẵn sàng về vốn mạo hiểm, hoạt động có hiệu quả của tổ chức môi giới trung gian...

Cùng với đòi hỏi các nhà khoa học phẩm chất kinh doanh, quan hệ mới giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất còn yêu cầu các doanh nhân phải có phẩm chất khoa học. Doanh nhân không chỉ chú trọng kế hoạch hoá quá trình sản xuất ngắn hạn, bám sát vào thực tại và đi vào giải quyết những sự cố kỹ thuật cụ thể, mà còn phải tiếp cận được với kiến thức khoa học của những tổ chức KH&CN hàng đầu, phải có khả năng tiến hành những nghiên cứu giầu trí tưởng tượng (thoát ly khỏi thực tế hiện tại) và phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự đổi mới, sáng tạo.  

Từ những phân tích về tình hình chung trên thế giới, liên hệ với Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một số điểm hữu ích sau:

- Sự phát triển KH&CN ở Việt Nam đang cần những nhà khoa học có khả năng gắn kết nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, gắn nghiên cứu với sản xuất. Đồng thời cũng cần xác định rõ quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất phù hợp với yêu cầu phát triển của KH&CN mang tính cách mạng với các gắn kết khác, như gắn kết nghiên cứu với sản xuất đặt trong xu thế chuyển sang kinh tế thị trường. Hiện nay, ở nước ta đã xuất hiện nhiều quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất theo quan hệ thị trường, như hợp đồng nghiên cứu giữa cơ quan nghiên cứu KH&CN với bên ngoài, mua bán quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao tri thức KH&CN qua hoạt động kiêm nhiệm của cán bộ nghiên cứu. Đó là các quan hệ khá phong phú, tồn tại từ lâu và đã trở nên phổ biến, được xây dựng một cách tự giác trên cơ sở hệ thống lý luận về chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, khác với quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất theo thị trường, những hiện diện của gắn kết nghiên cứu với sản xuất hiện đại chỉ là các dấu hiện thiếu rõ ràng. Chương trình nghiên cứu liên kết nhiều bên mới xuất hiện ở một vài địa phương (Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hải Phòng) dưới dạng sáng kiến của địa phương tìm kiếm cách làm mới. Những doanh nghiệp xuất thân từ tổ chức KH&CN chưa thể coi là loại hình doanh nghiệp spin-off hoặc star-up đích thực. Các khu công nghệ phần mềm đều mới hình thành... Để khắc phục tình trạng chậm trễ, tự phát và hình thức trong hình thành quan hệ gắn kết nghiên cứu với sản xuất, nhằm phát triển của KH&CN mang tính cách mạng, cần phải hiểu đúng hơn về loại gắn kết này.

- Gắn kết nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu với sản xuất đòi hỏi các nhà khoa học phải có năng lực nghiên cứu hệ thống, tổng hợp,... Đây là một thách thức đối với chủ trương lấy nghiên cứu ứng dụng làm chính và thái độ coi nhẹ nghiên cứu cơ bản. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, cần phân biệt giữa những người tiến hành ứng dụng kết quả nghiên cứu với nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng một cách thực sự, có giải quyết một mức độ nhất định những vấn đề thuộc về nghiên cứu cơ bản.

- Không thể đòi hỏi tất cả các nhà khoa học phải chuyển thành lực lượng mới. Hiện nay chỉ nên tập trung xây dựng một bộ phận nhỏ lực lượng khoa học đóng vai trò thúc đẩy những quan hệ mang tính cách mạng. Đó là các nhà khoa học hoạt động trong những ngành, lĩnh vực nghiên cứu như hoá chất, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,... những nhà khoa học có năng lực kết hợp cả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và hoạt động sản xuất kinh doanh. So với thế giới, lực lượng này ở ta không thể có nhiều. ở đây, cần tránh nguy cơ gượng ép mở rộng quá mức để rồi hình thành lực lượng khoa học không có gốc: cơ bản không thấu, ứng dụng không biết, sản xuất không hiệu quả,...

Như vậy, đội ngũ khoa học nước ta sẽ phân hoá thành 3 lực lượng: bộ phận không có khả năng nghiên cứu (bộc lộ rõ năng lực yếu kém  trước tình hình mới), bộ phận trực tiếp tạo nên đổi mới mang tính cách mạng trong hoạt động KH&CN, bộ phận các nhà khoa học truyền thống. Cần chủ động duy trì bộ phận các nhà khoa học truyền thống và tạo mối quan hệ để bộ phận này hậu thuẫn tích cực cho lực lượng khoa học tiến hành cách mạng trong hoạt động KH&CN.

- Việc khuyến khích và xây dựng lực lượng khoa học tiến hành cách mạng trong hoạt động KH&CN phải đi đôi với tích cực tạo lập các điều kiện về vốn, bản quyền, hệ thống môi giới,... Chúng ta còn đang thiếu các điều kiện này, và đó cũng là một vấn đề cần được chú trọng trong thời gian tới.
  • Tags: