

Những năm gần đây, Việt Nam đã ghi nhận sự mở rộng rất nhanh của các dự án năng lượng, từ nhiệt điện, thủy điện, điện khí đến điện gió, điện mặt trời và hệ thống lưu trữ năng lượng. Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam dự kiến đạt hơn 236.000 MW, gấp hơn 3 lần hiện nay, với tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 36%. Đi cùng với đó, nhu cầu về thiết bị, linh kiện, kết cấu thép, cáp điện, máy biến áp, tuabin… tăng mạnh. Đây chính là “ngách” mà công nghiệp hỗ trợ trong nước có thể vươn lên và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng năng lượng.

Các chuyên gia nhận định, riêng mảng năng lượng tái tạo có thể tạo ra thị trường hàng tỷ USD cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong 10 năm tới. Việc sản xuất trụ tuabin, cánh quạt, thiết bị truyền dẫn, pin lưu trữ hay các cấu kiện cơ khí phục vụ nhà máy điện gió, điện mặt trời sẽ giúp doanh nghiệp trong nước mở rộng quy mô, tăng năng lực thiết kế và chế tạo, giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia chuỗi cung ứng, làm chủ thiết kế, chế tạo, lắp đặt trong các dự án điện, thủy điện, năng lượng tái tạo. Ví dụ, Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP (AGRIMECO) đã sản xuất, chế tạo sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho rất nhiều dự án thủy điện. Những bước đầu này cho thấy nếu được hỗ trợ đúng hướng, ngành công nghiệp hỗ trợ năng lượng có thể không chỉ là “vệ tinh” của dự án lớn mà trở thành nền tảng mới, góp phần nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, tạo giá trị gia tăng và hiện thực hóa nền công nghiệp năng lượng xanh, hiện đại và bền vững.

Nhưng dù tiềm năng lớn, phía trước là yêu cầu cao khi ngành năng lượng mới, đặc biệt điện gió ngoài khơi, hệ thống lưu trữ, thiết bị công nghệ cao đòi hỏi linh kiện, thiết bị có tiêu chuẩn công nghệ và môi trường khắt khe. Do đó đây vừa là thách thức, vừa là cửa mở cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nhanh chóng nâng cấp công nghệ, quản trị và chuỗi cung ứng để bắt kịp.

Tại Tọa đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” do Tạp chí Công Thương thực hiện, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nay, trong các dự án năng lượng, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện và nhiệt điện, tỷ lệ nội địa hóa đã có chuyển biến rõ rệt, nhưng chưa đạt được kỳ vọng.
Trong lĩnh vực điện gió, Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được khoảng 25-30% giá trị thiết bị, chủ yếu ở các hạng mục như: móng trụ, kết cấu thép, cọc, tháp tuabin và hệ thống đấu nối.

Trong năng lượng mặt trời, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 35-40%, tập trung vào sản xuất khung giá đỡ, dây dẫn, tủ điện, inverter và một phần module PV. Việt Nam hiện là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời đứng trong Top 10 thế giới, với sự tham gia của các doanh nghiệp như Boviet Solar, IREX Solar, Vina Solar… tuy nhiên, chuỗi giá trị vật liệu bán dẫn, wafer, cell vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.

So với các nước trong khu vực như Thái Lan (60-65%) hay Malaysia (55-60%) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, Việt Nam vẫn còn khoảng cách không nhỏ.
Các chuyên gia nhận định, có nhiều vấn đề đặt ra như dung lượng thị trường, nội lực của doanh nghiệp và quan điểm của các đối tác là chủ đầu tư, tổng thầu EPC dự án năng lượng. Song, năng lực của doanh nghiệp là vướng mắc lớn.
Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam cho rằng, đa phần các doanh nghiệp Việt chưa làm chủ được công nghệ, còn đang khá yếu trong các hoạt động nghiên cứu phát triển R&D, dẫn đến hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm còn ở tỉ lệ rất khiêm tốn.
Ông Trần Kiên Dũng phân tích, có ba trụ cột chính ảnh hưởng lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trên con đường này.

Thứ nhất là, năng lực quản trị. Doanh nghiệp cần có một tầm nhìn chiến lược mang tính dài hạn, có khả năng xây dựng được một bức tranh lớn ở trong tương lai chúng ta sẽ đi đâu, về đâu, như thế nào. Những kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn cần được thiết lập, và xây dựng những hệ thống quản trị để chúng ta có khả năng vận hành các hoạt động trong doanh nghiệp, đạt được mục tiêu mà chúng ta đặt ra.
Thứ hai là, năng lực công nghệ. Doanh nghiệp cần phải có khả năng nắm bắt những công nghệ mới, tiếp cận những công nghệ mới và có khả năng để gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩma, như vậy mới gia tăng được giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng mà chúng ta đang cung cấp cho toàn cầu.
Thứ ba là, con người. Trong bất kỳ một hoàn cảnh nào thì nhân lực chất lượng cao sẽ luôn luôn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ không thể có một hệ thống quản trị tốt, sẽ không thể tiếp cận những công nghệ mới nếu như năng lực của nhân sự của doanh nghiệp đó không đáp ứng được vấn đề này.

Cùng với đó, các chuyên gia cũng đồng tình rằng phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, nên tiềm lực về kinh tế về nhà xưởng, nhân lực, tài chính yếu, trong khi chi phí đầu tư lĩnh vực này lớn, đòi hỏi dây chuyền thiết bị và công nghệ hiện đại.
Hơn nữa, cơ chế, chính sách và thị trường nội địa hóa cũng chưa đủ mạnh. Mặc dù đã có chính sách, nhưng doanh nghiệp phản ánh rằng vẫn cần chính sách ổn định và dài hạn hơn. Việc ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn cho thiết bị, linh kiện nội địa còn chậm; chưa có quy định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án, tạo ra “thị trường chờ” khiến doanh nghiệp phải đầu tư rồi chờ hiệu quả. Hỗ trợ về tín dụng, đất đai, thuế và xúc tiến thương mại còn chưa đủ mạnh để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng hình thành và phát triển bền vững.

Ông Chu Việt Cường cho biết thêm, những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành rất nhiều các chính sách nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là lĩnh vực năng lượng. Có thể kể đến như:
Nghị quyết số 23-NQ/TW năm 2018 của Bộ Chính trị về định hướng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 - trong đó nhấn mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ là giải pháp then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia;

Quyết định số 68/QĐ-TTg năm 2017 và Quyết định số 493/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ và Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2035;
Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ - trong đó có đưa ra những ưu đãi mới cho các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thuộc ngành năng lượng, đặc biệt là ưu đãi cho các sản phẩm ngành điện như biến áp, thiết bị điện hay các sản phẩm liên quan đến cơ khí.
Tại Nghị quyết 55-NQ/TW về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050 cũng khẳng định yêu cầu phát triển chuỗi cung ứng, sản xuất thiết bị năng lượng trong nước, tiến tới tự chủ hoàn toàn trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, điện gió, điện mặt trời, thiết bị lưu trữ và truyền tải điện.
"Những chính sách này đã tạo khung pháp lý và định hướng rất rõ ràng, giúp các địa phương và doanh nghiệp có thể nhận được những chính sách ưu đãi, có cơ sở đầu tư, đổi mới về công nghệ, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như phát triển các kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại để từng bước giúp các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có thể hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu", ông Chu Việt Cường cho hay.
Khẳng định vai trò quan trọng của chính sách đối với khả năng tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng năng lượng, TS. Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho biết, tỷ lệ nội địa hóa các dự án, thiết bị năng lượng đã chuyển biến tích cực từ khi các chính sách đặc thù được ban hành.
Các chính sách theo từng lĩnh vực thủy điện, thủy điện tích năng; nhiệt điện than; điện mặt trời; điện khí; điện gió đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt cơ hội, khai thác thị trường công nghiệp năng lượng tiềm năng. Doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, tự chủ việc sản xuất thiết bị đã góp phần giảm chi phí đầu tư trên mỗi MW, góp phần tăng quy mô phát triển ngành năng lượng.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, chính sách vẫn cần được vận hành mạnh mẽ và thực chất hơn.

TS. Vũ Văn Khoa cho rằng, có 4 vấn đề Chính phủ và các Bộ ngành cần giải quyết để hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, cần ban hành nhanh các tiêu chuẩn, quy chuẩn về thiết bị năng lượng và linh kiện cơ khí trong nước để có thể chứng minh các sản phẩm này đáp ứng đủ tiêu chuẩn cần thiết đưa vào sử dụng trong các dự án. Đồng thời, cần quy định về tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong các dự án để tạo dung lượng thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Việc cải cách thủ tục hành chính, rút gọn các trình tự phê duyệt cũng cần được đẩy mạnh.
Thứ hai, cần tăng quy mô hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ đổi mới sáng tạo, hay mở rộng quỹ đất, phát triển các trung tâm R&D ở các viện nghiên cứu, các cơ quan đủ điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện công tác nghiên cứu và phát triển.
Thứ ba, cần mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI để chuyển giao công nghệ.
Cuối cùng, quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp chế tạo cho ngành năng lượng ở gần các vùng có thị trường, tức các địa phương có tiềm năng phát triển năng lượng lớn, qua đó tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá và logistics cho các doanh nghiệp trong chuỗi.
Ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP cho rằng, cần có chính sách dài hạn và ổn định.

Cùng với đó, ông An cũng nhấn mạnh cần ưu tiên vốn tín dụng, ưu đãi đất đai và thuế cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng, cùng với hỗ trợ xúc tiến thương mại và chuyển giao công nghệ để rút ngắn khoảng cách với các nhà cung cấp nước ngoài.

Để giải quyết những vấn đề này, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp Chu Việt Cường cho biết, hiện nay Bộ Công Thương đã và đang dự thảo Nghị định mới về ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp chế tạo trong lĩnh vực điện, trong đó có những quy định hỗ trợ, ưu đãi nổi bật.

Một là, ưu đãi về thuế, ưu đãi về đất đai, tín dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện, sản xuất, nghiên cứu vật liệu mới về sản xuất pin hay công nghệ lưu trữ về năng lượng.
Hai là, hỗ trợ nghiên cứu phát triển R&D và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo.
Ba là, ưu tiên sử dụng các sản phẩm hay các thiết bị sản xuất nội địa trong các dự án mà có sử dụng vốn của nhà nước.
Bốn là, xây dựng các cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng để tạo một sự kết nối giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trung tâm kỹ thuật với khách hàng công nghiệp.
“Khi được ban hành thì tôi nghĩ là nghị định này sẽ tạo nên một cú hích rất mạnh mẽ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ năng lượng trong chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Chu Việt Cường cho hay.

Bên cạnh đó, nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về tài chính, công nghệ, con người, thời gian tới Bộ Công Thương cũng tập trung vào bốn giải pháp chính.
Thứ nhất, xây dựng các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp về công nghiệp, quỹ đổi mới sáng tạo; phối hợp với hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức quốc tế để cấp các tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về đầu tư máy móc, đầu tư dây chuyền công nghệ.
Thứ hai, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa tiệm cận dần với các yêu cầu về kỹ thuật, trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp thông qua việc liên kết giữa các trường, viện nghiên cứu và các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật như IDC hay IDCS trong miền Nam.
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ số, chuyển đổi số, sản xuất thông minh vào trong việc phát triển, cải tiến quy trình sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như áp dụng, triển khai các hệ thống MES, ERP, quản trị số...
