
EU là thị trường nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 34% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may toàn cầu. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước ngoài khối đạt 115 tỷ EUR vào năm 2023. Các nước nhập khẩu dệt may lớn nhất trong EU bao gồm: Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia và Hà Lan.


Với Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai, chỉ sau Hoa Kỳ, đây cũng là thị trường có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đáng kể. Theo Thương vụ Việt Nam tại Bỉ và EU, tính chung giai đoạn 2018-2023, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đạt trung bình 8%. Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU từ ngoài khối tăng dần qua các năm.
Đặc biệt, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu mặt hàng này của EU từ ngoài khối có sự tăng trưởng đáng kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) hiệu lực từ thàng 8/2022, từ 3,3% năm 2020 đến 4,3% năm 2023 và đứng thứ 5 trong số các nhà cung cấp hàng đầu sang EU năm 2023. Tuy nhiên, thị phần này còn rất khiêm tốn, cho thấy dư địa xuất khẩu sang khu vực này còn rất lớn.


Từ đầu năm 2025, với sự khởi sắc của nền kinh tế EU, đặc biệt là ở các thị trường lớn như Đức, Italia, Pháp... đã khiến xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU tăng trưởng tích cực. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU rất đa dạng với hơn 30 chủng loại, trong đó áo Jacket, áo thun và quần là các chủng loại chính.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường trên thế giới 8 tháng năm 2025 đạt trên 26,47 tỷ USD, tăng 8,71% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó xuất khẩu sang EU chiếm 11,76% trong tổng kim ngạch, đạt trên 3,11 tỷ USD, tăng 13,12%. Hà Lan và Đức là 2 thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam tại EU trong 8 tháng đầu năm 2025.

Thị trường dệt may EU đang có những thay đổi lớn ở nhiều khía cạnh, đòi hỏi các nhà cung cấp phải có hướng tiếp cận mới phù hợp.
Về nhu cầu mua hàng, người mua hàng châu Âu ngày càng hướng tới các yêu cầu khắt khe hơn về tính bền vững. Tính bền vững không phải là một sự lựa chọn. Nhiều yêu cầu về tính bền vững về xã hội và môi trường đã trở thành luật và nếu không tuân thủ, nhà sản xuất sẽ không thể xuất khẩu hàng may mặc sang Châu Âu. Đồng thời, tính bền vững yêu cầu các công ty phải chịu rất nhiều trách nhiệm, chủ yếu như tính minh bạch của chuỗi cung ứng và giảm thiểu lượng khí thải carbon...
Về yêu cầu pháp lý mới, nổi bật hiện nay phải kể đến Chiến lược dệt may tuần hoàn và bền vững như một phần của Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD) - Chương trình tổng thể và dài hạn của EU nhằm ứng phó với các vấn đề khẩn cấp về khí hậu toàn cầu đến năm 2050. Các yêu cầu bắt buộc về tính bền vững đã ngày càng khắt khe hơn. Đơn cử là các quy tắc hiện hành về an toàn sản phẩm, sử dụng hóa chất (REACH), ghi nhãn và quyền sở hữu trí tuệ, các quy định nhập khẩu mới liên quan đến các lĩnh vực như: Thẩm định chi tiết, Báo cáo giảm lượng khí thải carbon, chống phá rừng (đối với da), Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, quyền sửa chữa cho người tiêu dùng cuối, việc sử dụng có chủ ý vi nhựa và "tẩy xanh"...



Để đáp ứng với những yêu cầu của EU và cũng là xu thế toàn cầu, đòi hỏi các nhà sản xuất phải chuyển đổi sang hướng phát triển xanh, bền vững nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và giá trị trong chuỗi.
Về xu hướng tiêu dùng, người tiêu dùng cuối châu Âu gia tăng yêu cầu sự tiện lợi và minh bạch. Do mua sắm trực tuyến, người tiêu dùng châu Âu đã quen với việc mua sắm trực tuyến đa dạng lựa chọn về kiểu dáng, giá cả cạnh tranh, giao hàng rất nhanh và nhiều thông tin hơn về chất lượng sản phẩm và sản xuất. Triển vọng cho thấy người tiêu dùng sẽ trở nên khắt khe hơn nữa trong 10 năm tới.
Vì vậy, các công ty xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam cần mở rộng dịch vụ bao gồm thu gom, làm sạch và sửa chữa/tân trang quần áo cũ (rác thải sau tiêu dùng). Mở rộng vòng đời sản phẩm bằng cách thiết kế các sản phẩm ít bị ảnh hưởng bởi mùa vụ hoặc xu hướng (thiết kế vượt thời gian) và bằng cách sử dụng vật liệu bền, chất lượng cao. Hình thành và chia sẻ câu chuyện bền vững của riêng công ty, điều này sẽ tăng thêm giá trị cho thương hiệu của nhà sản xuất và cho người mua hàng.

Mặt khác, dự báo dân số châu Âu ngày càng già đi và đa dạng hơn. Cơ cấu người tiêu dùng thay đổi đồng nghĩa với thay đổi nhu cầu, vì vậy cần theo dõi, quan sát và xác định các thị trường ngách mới có tiềm năng chính.
Về nguồn cung, nhiều yếu tố khác nhau đang ảnh hưởng đến chiến lược tìm nguồn cung ứng của người mua hàng dệt may EU như: Bất ổn địa chính trị và khủng hoảng khí hậu, tăng trưởng kinh tế ở châu Âu, hậu quả của đại dịch Covid-19, lạm phát, chính sách thương mại, hành vi của người tiêu dùng và mô hình chi tiêu...
Do đó, các công ty xuất khẩu hàng may mặc cần tập trung vào việc tăng cường tính linh hoạt trong sản xuất và tốc độ đưa sản phẩm ra thị trường. Tăng cường quảng bá quốc gia và lĩnh vực kinh doanh để các nhà quản lý tìm nguồn cung ứng biết được lợi ích của việc kinh doanh với một quốc gia cụ thể và thêm quốc gia đó làm điểm đến tìm nguồn cung ứng mới. Tìm kiếm sự hợp tác với các nhà sản xuất địa phương khác để chia sẻ chi phí cũng như cơ hội bán hàng.
Về cạnh tranh giữa các nguồn cung dệt may cho khu vực EU, xu hướng sản xuất hàng may mặc đang chuyển sang khu vực mới. Mặc dù là nguồn cung dệt may lớn nhất cho EU nhưng do ảnh hưởng của Luật môi trường chặt chẽ hơn ở Trung Quốc và những bất đồng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhiều công ty sản xuất hàng may mặc Trung Quốc đã bắt đầu đầu tư vào các nước châu Á khác như Myanmar, Campuchia và Việt Nam.


Trong bối cảnh mới của thị trường dệt may EU, Thương vụ Việt Nam tại Bỉ, Luxembourg và EU khuyến nghị một số giải pháp để thúc đẩy khai thác, phát triển tốt hơn thị trường này.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, cần triển khai các biện pháp thực hiện Hiệp định EVFTA liên quan đến phát triển bền vững và có kế hoạch kiểm soát tác động đến môi trường, lao động để có thể tiếp tục duy trì lợi thế từ EVFTA. Nhà nước cần chú trọng đến chương trình xanh hóa ngành dệt may Việt Nam để đảm bảo được các vấn đề về môi trường được nêu trong thỏa thuận của EVFTA. Như vậy, sẽ giúp ngành dệt may của Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của EU.
Để phát triển bền vững, từ nay đến năm 2030, ngành dệt may cần chuyển dần từ trọng tâm phát triển nhanh sang trọng tâm phát triển bền vững, kinh doanh tuần hoàn, hoàn thiện chuỗi giá trị trong nước và tham gia ở vị trí có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Giải pháp chính của ngành dệt may sẽ đến từ việc đầu tư cho phát triển bền vững, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực. Trong đó, thu hút các dự án dệt, nhuộm hoàn tất công nghệ cao vào các khu công nghiệp; đầu tư sản xuất các loại nguyên liệu mới có nguồn gốc tự nhiên, thân thiện môi trường; chuyển đổi số, đầu tư phát triển ngành thời trang dệt may.
Trong quá trình đó, Chính phủ cần đồng hành cùng doanh nghiệp để xây dựng “chiến lược xanh hóa”, đầu tư các nhà máy có hạ tầng đạt các chuẩn mực đánh giá của các nhãn hàng như môi trường làm việc, nước thải, khí thải, năng lượng tái tạo bằng điện mặt trời áp mái...
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý chức năng của Việt Nam cần đề nghị EU hỗ trợ kỹ thuật và hướng dẫn để đáp ứng các quy định mới của EU. Việc chủ động thích ứng với các quy định mới với sự hỗ trợ của EU sẽ giúp Việt Nam tranh thủ được vị trí tốt trên thị trường EU. Ngoài việc hợp tác chặt chẽ với các nhà hoạch định chính sách của EU để giúp cập nhật, định hình phạm vi ban hành các luật sắp tới thì cũng cần tập trung phát triển các khuôn khổ đầu tư và lập pháp để hỗ trợ quá trình chuyển đổi của ngành. Triển khai cơ chế cân bằng carbon với việc cung cấp các tín chỉ carbon để doanh nghiệp có thể kinh doanh, khuyến khích áp dụng năng lượng tái tạo tại các nhà máy. Cơ hội từ EVFTA trong ngắn và trung hạn là rất lớn, do vậy Việt Nam cần xem xét tập trung đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại thị trường EU.
Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chủ động cập nhật thông tin về quy tắc xuất xứ khi tham gia EVFTA. Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong EVFTA không chỉ có thêm quy định mới mà cách diễn đạt các tiêu chí xuất xứ cũng khác so với các Hiệp định mà Việt Nam đang tham gia. Do vậy, để có thể áp dụng một cách chuẩn xác, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải hiểu rõ và hiểu đúng quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong EVFTA.



Các công ty ngoài EU sẽ là người thực hiện phần lớn các chính sách trong Chiến lược Dệt may của EU, thiết lập giấy phép hoạt động mới cho cả nhà bán lẻ, thương hiệu và nhà cung cấp: nếu không tuân thủ, bạn không thể bán hàng trên thị trường EU hoặc cung cấp cho các công ty tuân thủ. Do vậy, ngành dệt may Việt Nam cần quan tâm đến những điều chỉnh hoạt động cần thiết phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội và môi trường ngày càng cao trước thời hạn tuân thủ chính thức của EU.
Doanh nghiệp dệt may cần chủ động nguồn cung nguyên phụ liệu đặc biệt là nguyên phụ liệu chất lượng cao và thân thiện với môi trường. Với các tiêu chuẩn khắt khe về nguồn gốc, các doanh nghiệp dệt may cần trọng tâm xây dựng các nhà xưởng, máy móc, chủ động nguồn nguyên phụ liệu ngay trong nước để hạn chế việc nhập khẩu nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. Nhằm khắc phục vấn đề này, các doanh nghiệp dệt may cần đẩy mạnh đầu tư để hoàn thiện chuỗi cung ứng sản xuất; đặc biệt, hướng tới xây dựng các nhà máy lớn, với dây chuyền sản xuất hiện đại, thay vì phát triển nhỏ lẻ.
Song song đó, các doanh nghiệp cần xem xét đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để đổi mới các phương pháp thực hành bền vững cũng như đào tạo lực lượng lao động về công nghệ mới. Chuyển đổi dần sang sử dụng năng lượng sạch để đáp ứng yêu cầu về hiệu quả năng lượng của eco-design. Doanh nghiệp cần triển khai nghiên cứu các quy định liên quan và trao đổi với các đối tác tại châu Âu để có kế hoạch chuyển đổi từ sớm và có kế hoạch dài hạn. Các Hiệp hội cần phát huy vai trò hướng dẫn thực hiện tốt các quy định của EU và phối hợp được các doanh nghiệp trong ngành khai thác thị trường EU trên cơ sở lợi ích lâu dài, bền vững…
Thích ứng tốt với bối cảnh mới và đáp ứng những yêu cầu mới của EU sẽ giúp hàng dệt may Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và giá trị trong chuỗi cung ứng, phát triển bền vững tại thị trường này.