
Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường như hiện nay, liên kết doanh nghiệp càng trở nên quan trọng hơn để mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới, chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các hình thức liên kết hiện nay đang ngày một đa dạng hơn, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành (liên kết ngang); hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng (liên kết dọc); đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược nhằm chia sẻ thị trường, thông tin, nghiên cứu và phát triển.
Trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia cũng có xu hướng tăng. Liên kết doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Tuy vậy, nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản.
Phát biểu tại Diễn đàn doanh nghiệp 2025, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) cho biết, Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế, tham gia một số khâu, công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn chủ yếu trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu; đồng thời còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước để phát triển các ngành kinh tế chiến lược quốc gia có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Bên cạnh đó, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong những giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy..., các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, cùng nhau phát triển.
Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI chỉ đạt khoảng 300 trên tổng số hơn 1.800 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó chủ yếu cung ứng hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng thấp hoặc đơn giản.
““Đây là điều mà chúng tôi thấy hết sức quan ngại. Bởi trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp FDI sang Việt Nam đầu tư có cả mạng lưới doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đi theo, vậy nên “room” cho doanh nghiệp của nước ta tham gia vào các chuỗi giá trị này không còn nhiều. Ngay cả trong những công đoạn sản xuất, gia công mang tính đơn giản, thì cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam cũng khá hạn chế”.
TS. Trần Thị Hồng Minh
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương)
Số liệu điều tra doanh nghiệp của Cục Thống kê giai đoạn 2018-2024 cho thấy, có trên 97% trả lời không có hoạt động liên quan đến xuất khẩu và khoảng 99% doanh nghiệp không có gia công hoặc sản xuất hàng hóa cho nước ngoài. Một nghiên cứu khác của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2022 cũng cho thấy, một nửa doanh nghiệp khảo sát trả lời (53,3%) không đặt mục tiêu rõ ràng khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tức các doanh nghiệp vẫn thiếu định hướng rõ ràng trong việc liên kết cũng như chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo chuyên gia, có một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng này trong cộng đồng doanh nghiệp.
Một trong những nguyên nhân đó là năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Năng lực tài chính và trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp trong nước được đánh giá là chưa cao, đặc biệt trong bối cảnh khoa học công nghệ hiện đại liên tục phát triển với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), blockchain,…
Từ khó khăn trong tiếp cận các lợi thế khoa học công nghệ để áp dụng vào hoạt động quản trị, sản xuất kinh doanh, phân phối hàng hóa, dẫn đến năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tương đối hạn chế, từ cạnh tranh về giá, chất lượng cho đến khả năng giao hàng đúng thời hạn, thực hiện đơn hàng lớn, tiếp cận kênh phân phối. Các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn dịch COVID-19, qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, và khả năng thích ứng và liên kết với bên ngoài.
Liên quan đến vấn đề thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp đã có nhưng chưa đủ. Chính sách phát triển doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để tham gia các liên kết doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và quốc tế. Hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thấp.
Trong khi đó, Việt Nam còn thiếu chính sách đặc thù về thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, nhất là chính sách ưu đãi về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Quy định hiện hành chưa đủ thuận lợi cho hoạt động tiếp cận các hình thức cấp vốn theo chuỗi giá trị.
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Theo ông Phan Đức Hiếu - Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế tài chính của Quốc hội, bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang thay đổi, cải cách thể chế không chỉ hướng đến yêu cầu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh như những giai đoạn trước mà cần tạo những đột phá mạnh mẽ.
Chuyên gia kiến nghị, thời gian tới cần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh. Theo đó, quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông hiện đại và các công nghệ điển hình.
Mặt khác, cần xây dựng, phát triển, hoàn thiện hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả để thực hiện quản lý nhà nước trên môi trường số và thực hiện các mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ cho các chủ thể kinh doanh. Khẩn trương hoàn thiện, kết nối, chia sẻ đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp để hình thành một hệ thống thông tin kết nối và thống nhất về đăng ký kinh doanh, cấp phép, chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh, thuế, hóa đơn, báo cáo tài chính,...
Bên cạnh đó, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng bằng chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết.
Đặc biệt, cần điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; Sớm hình thành và phát triển các khu thương mại tự do làm cứ điểm chiến lược để các doanh nghiệp phát triển tập trung và phát triển theo chuỗi liên kết ngành, gắn với các mô hình kinh doanh mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn,...).
Đồng thời, cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Trước mắt, cần thúc đẩy phát triển thực chất đối với công nghiệp bán dẫn, điện tử tiên tiến, phát triển phần mềm và trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp, công nghệ xanh và năng lượng tái tạo, các dịch vụ có tính kết nối (logistics, ICT) và hạ tầng thông minh. Ưu tiên mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ của các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn kinh tế tư nhân tham gia thực hiện các dự án đầu tư công.
Cuối cùng, cần tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tập trung vào thực hiện một số giải pháp đồng bộ như: Phát triển nền tảng số của Việt Nam để thúc đẩy kết nối doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác và tận dụng nguồn lực chung. Xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu, giúp doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin thị trường, xu hướng ngành và cơ hội hợp tác. Củng cố, đổi mới mô hình cụm liên kết ngành giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI theo chuỗi giá trị.