



Tại buổi làm việc với Viện Công nghiệp Thực phẩm ngày 29/8/2025, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá: “Với vai trò là đơn vị nghiên cứu đầu ngành về công nghệ thực phẩm, Viện phải tập trung nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới, tiên tiến trong lĩnh vực chế biến và bảo quản thực phẩm, góp phần giảm thất thoát, lãng phí lương thực, thực phẩm, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phát triển bền vững ngành công nghiệp thực phẩm”.

Theo Bộ trưởng, tiềm năng của Viện rất lớn, khả năng hợp tác với các đơn vị trong và ngoài Bộ rất đa dạng. Viện hiện là một trong những cơ sở hàng đầu của mạng lưới bảo tồn gen quốc gia và quốc tế, sở hữu hơn 1.700 chủng vi sinh vật công nghiệp phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và sản xuất. Đây là nền tảng quan trọng cho phát triển công nghiệp sinh học – lĩnh vực mũi nhọn trong chiến lược phát triển của ngành Công Thương đến năm 2045.
Bên cạnh đó, Viện đã chủ động kết nối doanh nghiệp, chuyển giao các quy trình sản xuất mới từ phụ phẩm nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị chuỗi, giảm phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu. Một số công nghệ đã được doanh nghiệp tiếp nhận và thương mại hóa thành công, thể hiện hiệu quả thực tế của hoạt động nghiên cứu – ứng dụng – chuyển giao.


Theo PGS.TS. Vũ Nguyên Thành – Viện trưởng Viện Công nghiệp Thực phẩm, vai trò của khoa học và công nghệ trong ngành thực phẩm ngày càng trở nên quyết định.
“Cách đây 30 năm, nỗi lo của chúng ta là làm sao đủ lương thực. Giờ đây, Việt Nam đã làm chủ sản xuất và xuất khẩu lương thực – thực phẩm với giá trị trên 40 tỷ USD mỗi năm. Thành tựu này có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ”, ông khẳng định.
Tuy nhiên, theo Viện trưởng Thành, quá trình chuyển giao công nghệ từ viện nghiên cứu sang doanh nghiệp vẫn còn hai điểm nghẽn lớn: “Một là, các nhà khoa học có gì để chuyển giao; hai là, chuyển giao như thế nào”. Ông chỉ rõ, mô hình tự chủ tài chính hiện nay khiến nhiều viện phải “lo làm kinh tế để tồn tại”, dẫn đến tình trạng phân tán nguồn lực, thiếu đầu tư dài hạn cho các hướng nghiên cứu mũi nhọn., làm giảm tính chuyên sâu.

Đặc biệt, theo Viện trưởng, doanh nghiệp ngày nay không chỉ cần sản phẩm rời rạc, mà cần “sản phẩm công nghệ trọn gói” – tức là giải pháp tổng thể, có thể ứng dụng trực tiếp vào sản xuất. “Rất tiếc là hiện nhiều sản phẩm khoa học vẫn ở trạng thái chưa hoàn thiện, không thể chuyển giao trực tiếp cho doanh nghiệp. Chúng ta cần những trung tâm trung gian kết nối công nghệ, có khả năng tập hợp và đóng gói các công nghệ để chuyển giao hiệu quả hơn,” ông nói.
Chính từ tư duy đó, Viện Công nghiệp Thực phẩm đang định hướng phát triển trở thành trung tâm kết nối công nghệ trong ngành – nơi hội tụ, tích hợp và chuyển giao các giải pháp hoàn chỉnh giữa các viện, trường và doanh nghiệp. Mô hình này không chỉ giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh hơn với công nghệ mới, mà còn giúp các viện nghiên cứu thương mại hóa sản phẩm khoa học, nâng cao giá trị và tính ứng dụng của các đề tài.


Nhìn về tương lai, Viện trưởng Vũ Nguyên Thành chia sẻ: “Viện Công nghiệp Thực phẩm là một trong những viện có thế mạnh trong hợp tác với doanh nghiệp. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mới cho phép các viện được làm chủ sản phẩm, thành lập các công ty spin-off để trực tiếp hợp tác, chấp nhận rủi ro và thương mại hóa công nghệ. Đây là bước đột phá giúp viện nghiên cứu mạnh dạn hơn trong tự chủ và hợp tác cùng doanh nghiệp”.
Viện hiện đang tập trung hai hướng nghiên cứu trọng điểm: Một là công nghệ chế biến sau gạo – nhằm nâng cao giá trị ngành lúa gạo, khai thác sâu hơn chuỗi giá trị sau thu hoạch; Hai là công nghệ sản xuất protein thay thế – ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra nguồn protein từ vi sinh vật hoặc thực vật, góp phần giảm áp lực lên môi trường và đáp ứng xu hướng tiêu dùng bền vững.
Song song với đó, Viện cũng đề xuất thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo tại Viện, nơi kết nối các nhà cung cấp công nghệ trong và ngoài nước với doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu đổi mới. Hằng năm, Viện cử các đoàn công tác tham dự hội chợ công nghệ quốc tế để cập nhật xu hướng mới, tập hợp và “đóng gói” công nghệ trọn gói cho doanh nghiệp trong nước.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng đặt kỳ vọng, với nguồn lực hiện có, Viện Công nghiệp Thực phẩm sẽ trở thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo hàng đầu trong khu vực, có năng lực nghiên cứu, đào tạo sau đại học và hợp tác quốc tế. Ông yêu cầu Viện “tập trung đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, mọi hoạt động khoa học công nghệ phải bắt đầu từ nhu cầu thị trường”.

Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ hàng đầu, Viện đang triển khai tái cấu trúc tổ chức, tinh gọn bộ máy, đồng thời đầu tư nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu hiện đại đạt chuẩn quốc tế. Viện hiện sở hữu nhiều phòng nghiên cứu chuyên sâu, các dây chuyền pilot quy mô công nghiệp, đủ năng lực thực hiện thử nghiệm, đánh giá, chuyển giao các quy trình công nghệ tiên tiến.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, trong giai đoạn tới, Viện cần phát triển mạnh năng lực nghiên cứu – phát triển (R&D), xây dựng các tài sản trí tuệ, sáng chế và giải pháp hữu ích, đồng thời đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học thông qua mô hình liên doanh, liên kết và góp vốn bằng tài sản trí tuệ. Đây sẽ là hướng đi căn bản để Viện không chỉ tồn tại bằng ngân sách, mà còn phát triển bền vững nhờ giá trị tri thức.

Bên cạnh đó, Viện chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng quản lý và thực hành công nghệ hiện đại. “Công tác đào tạo sau đại học, nghiên cứu sinh chuyên ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm tại Viện đang được mở rộng, góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho ngành,” Bộ trưởng nhấn mạnh.
Từ một đơn vị nghiên cứu truyền thống, Viện Công nghiệp Thực phẩm đang chuyển mình mạnh mẽ thành trung tâm kết nối tri thức và công nghệ – nơi quy tụ các nhà khoa học, kỹ sư và doanh nghiệp cùng sáng tạo những giải pháp mới. Với tư duy “công nghệ trọn gói”, Viện không chỉ là nơi tạo ra tri thức, mà còn là cầu nối đưa tri thức vào sản xuất, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam trong thời kỳ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
