“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
14/11/2024 lúc 08:30 (GMT)

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Xu thế “Xanh hoá” chuỗi cung ứng toàn cầu đang đặt ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đòi hỏi các cam kết trách nhiệm với xã hội, môi trường cũng như với người tiêu dùng. Trong thời gian tới, điều này càng trở nên bức thiết hơn khi các nước phát triển như Mỹ và EU đang cụ thể hoá những yêu cầu định tính về “Xanh hoá” tại các đạo luật, chính sách…, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi hoặc bị loại bỏ.

Nhưng ở một chiều khác, xu thế “Xanh hoá” chuỗi cung ứng lại đang là động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng có những bước phát triển mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu chủ lực cũng như tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Dệt may là một trong những ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, giải quyết việc làm cho khoảng 3 triệu lao động và đang có đà tăng trưởng tốt, với mức tăng trưởng bình quân trên 10%/năm. Năm 2024, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế thế giới nhưng xuất khẩu của dệt may dự kiến vẫn đạt 44 tỷ USD.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Là doanh nghiệp tiên phong trong “xanh hóa” cũng như phát triển bền vững khi tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, bà Nguyễn Thị Minh Hải - Trưởng ban Phát triển bền vững Công ty Cổ phần - Tổng công ty may Bắc Giang (LGG) cho biết, xu thế “xanh hóa” đang trở nên tất yếu đối với tất cả các khâu cũng như các doanh nghiệp khi tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may, trong đó có LGG.

Mặc dù đã đón nhận xu thế “Xanh hoá” với tâm thế chủ động, tuy nhiên, bà Hải thẳng thắn thừa nhận, trong quá trình thực hiện những mục tiêu chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, LGG vẫn gặp một số những khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất là về nguồn vốn. Bà Hải chỉ ra rằng, nguồn vốn đầu tư cho các hạng mục phát triển xanh ví dụ như hệ thống năng lượng mặt trời, hệ thống xử lý nước thải hy hệ thống sử dụng nguồn nguyên liệu tái chế,… là rất lớn.

Thứ hai là trình độ kỹ thuật cũng như năng lực sử dụng công nghệ của lao động người Việt còn hạn chế, đặc biệt trong các lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời, điện gió,… vì vậy, cần có sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước trong việc đào tạo về nguồn nhân lực.

Thứ ba là cơ quan quản lý nhà nước cần có những định hướng, hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp xây dựng được lộ trình rõ ràng trong thực hiện các mục tiêu chuyển đổi xanh.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Chỉ rõ được những thách thức, khó khăn trong quá trình chuyển đổi xanh, Tổng công ty may Bắc Giang (LGG) cũng coi đây là cơ hội để tiếp cận với chuỗi sản xuất minh bạch hơn, tiếp cận với các phương thức sản xuất tiên tiến, công nghệ tốt hơn, sử dụng các nguồn năng lượng sạch, đảm bảo cho phát triển bền vững của doanh nghiệp trong tương lai.

Chính vì vậy, ngay từ khi xây dựng nhà máy cũng như dự án mới LGG đã tập trung xây dựng hệ thống năng lượng mặt trời, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo. Tính đến thời điểm hiện tại, số công suất nguồn điện năng lượng mặt trời cung cấp thì có thể đáp ứng vào những tháng cao điểm khoảng 40% lượng điện tiêu thụ của toàn nhà máy.

Bên cạnh đó, LGG cũng áp dụng những chính sách về chuyển đổi năng lượng như chuyển toàn bộ hệ thống đèn huỳnh quang sang hệ thống đèn LED; chuyển từ sử dụng lò hơi đốt than sang sử dụng lò hơi đốt nhiên liệu sạch biomass;… đồng thời đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải của nhà máy đảm bảo đầu ra có thể tái sử dụng cho việc trồng cây hoặc nuôi cá.

LGG cũng chú trọng việc đánh giá những chứng chỉ về tái chế toàn cầu, chứng chỉ về sử dụng nguyên liệu tái chế hoặc chứng chỉ lông vũ có trách nhiệm và rất nhiều chứng về trách nhiệm xã hội khác mà khách hàng yêu cầu trong quá trình tham gia vào chuỗi cung ứng và hàng loạt những hoạt động về nâng cao nhận thức cho người lao động.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Khi tham gia vào chuỗi cung ứng xanh, thực hiện những hoạt động phát triển xanh, phát triển bền vững, doanh nghiệp đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí, bên cạnh đó, cũng nâng cao được độ nhận diện của doanh nghiệp đối với khách hàng, vị thế của doanh nghiệp cũng được cải thiện, đồng thời năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác cũng được khách hàng đánh gia cao hơn.

Không chỉ có vậy, trong qua trình thực hiện các hoạt động xanh và bảo vệ môi trường, doanh nghiệp cũng tạo dựng được lòng tin với chính những người lao động tại doanh nghiệp và cộng đồng địa phương xung quanh.” - bà Hải nhấn mạnh.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Theo bà Hải, bối cảnh hiện nay là cơ hội rất lớn mở ra cho các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt khi mục tiêu “xanh hoá” ngành dệt may cũng được đề cập trong Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da giày của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035.

Ngoài ra, thời điểm hiện tại cũng là lúc các nhãn hàng lớn có rất nhiều ưu ái đối với các đối tác kinh doanh có trách nhiệm trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng như trách nhiệm xã hội.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Theo ông Lê Xuân Thịnh - Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), trong quá trình Trung tâm đi tư vấn, đặc biệt là tư vấn cho các doanh nghiệp dệt may đã nhận thấy rằng, có rất nhiều cơ hội để doanh nghiệp có thể thực hiện chuyển đổi xanh mà không đòi hỏi chi phí đầu tư quá lớn.

Bên cạnh các giải pháp sử dụng năng lượng một cách tiết kiệm, hiệu quả, doanh nghiệp còn có thể triển khai các giải pháp khác như tạo ra các sản phẩm phụ khác từ chất thải dệt may thông thường để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, nếu không thể tận dụng có thể làm nhiên liệu đốt cho lò hơi để phát điện, đồng thời giảm quá trình phát thải. Hoặc ngay từ khâu thiết kế sản phẩm cũng có thể thiết kế ra các sản phẩm ít sử dụng nhựa hoặc thay thế nhựa trong bao bì, đóng gói bằng giấy,…

Theo đó, ông Thịnh khuyến nghị, các doanh nghiệp dệt may phải xác định rõ lộ trình thực hiện xanh hóa, sử dụng bao nhiêu năng lượng/đơn vị sản phẩm, sử dụng bao nhiêu nước sạch, thải ra bao nhiêu chất thải, khí thải carbon… Từ đó đưa ra chiến lược phù hợp với khả năng, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ trong quá trình thực hiện.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

Xác định “Xanh hoá” là xu thế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển đổi để tiếp tục tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, để thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may, da giày đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, TS. Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viên Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước phải đồng hành cùng doanh nghiệp.

Cụ thể, phải xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách liên quan khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận đối với công nghệ về sản xuất; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trong chuỗi sản xuất, mạnh dạn đầu tư vào sản xuất các nguồn nguyên liệu mà Việt Nam còn đang phải nhập khẩu; cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động...

Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế chính sách về năng lượng, các doanh nghiệp phải tiếp cận đối được được đối với những nguồn năng lượng xanh, năng lượng sạch theo đúng yêu cầu, các cam kết.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
TS. Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương, Bộ Công Thương

Về đối ngoại, các cơ quan quản lý Nhà nước, ngành Công Thương và các cơ quan quản lý có liên quan phải thực sự đàm phán, trao đổi với phía đối tác những yêu cầu, từ đó xây dựng những bộ tiêu chí, hoặc tiêu chuẩn, các quy định có liên quan để hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận gần hơn đối với thị trường quốc tế.

Để không bị loại khỏi cuộc chơi, ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, dệt may và da giày nói riêng cần nhận thức rõ việc sẵn sàng thích ứng với những thách thức mới về chuyển đổi xanh. Ngoài ra, đẩy mạnh đầu tư, đổi mới trang thiết bị hiện đại và triển khai các giải pháp nhằm xanh hóa sản xuất, đồng thời tự chủ được nguồn cung nguyên phụ liệu, đa dạng hóa thị trường,... nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Có như vậy, lộ trình chuyển đổi xanh sẽ được thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế.

“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực
“Xanh hóa” chuỗi cung ứng dệt may: Áp lực và Động lực

 


Trang chủ

Bài mới

Xem nhiều

Multimedia

Tạp chí