Một số khuyến nghị cho quản lý môi trường trong hạn chế thiệt hại do úng ngập cục bộ tại các đô thị

ThS. Nguyễn Thanh Tuấn (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ)

Tóm tắt:

Trong thời gian gần đây, hiện tướng ngập, úng cục bộ tại các đô thị đã xuất hiện với tần suất ngày càng cao. Thiệt hại do các đợt ngập, úng cục bộ này gây ra cho các đô thị ngày càng lớn, nghiêm trọng nhất là với hai đô thị Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Bài viết trên cơ sở phân tích vai trò của hoạt động quản lý môi trường phòng ngừa hiện tượng ngập, úng cục bộ tại các đô thị Việt Nam, từ đó đưa ra các khuyến nghị và định hướng giải pháp để giảm thiểu hiện tượng ngập, úng cục bộ, nhằm tránh được các thiện hại cho nền kinh tế.

Từ khóa: Quản lý môi trường, đô thị, ngập úng, các đô thị.

1. Thực trạng ngập úng tại các đô thị

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị quốc gia, đến hết năm 2016, tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 35,2%, cả nước sẽ có hơn 795 đô thị các loại, tăng khoảng 125 đô thị so với năm 2013. Các đô thị đã và đang đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế đô thị đóng góp khoảng 70% GDP cả nước, tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị cao gấp 1,5 đến 2 lần so với mặt bằng chung trong cả nước.

Vị trí địa lý và điều kiện địa hình ảnh hưởng rất lớn đến thoát nước tự chảy của các đô thị. Nét đặc trưng của đô thị nước ta là sự phát triển gắn liền với việc khai thác và sử dụng các nguồn nước mặt (sông, biển...). Hệ thống thoát nước đô thị cũng liên quan mật thiết đến chế độ thủy văn của hệ thống sông, hồ. Thông thường về mặt tự nhiên, các sông, hồ thường kết với nhau thành dạng chuỗi thông qua các kênh mương thoát nước hở, tạo thành các trục tiêu thoát nước chính.

Hoạt động xử lý nước thải tại các đô thị cũng là điểm đáng quan tâm hiện nay. Do quy mô đô thị tăng đột biến, các hồ điều hòa, kênh, rạch thoát nước bị thu hẹp lại đã làm cản trở hoạt động thoát nước thải và nước mưa tại các đô thị. Hiện nay, hầu hết các đô thị đều có hiện tượng ngập cục bộ khi gặp phải những trận mưa lớn. Điều này cũng một phần làm cản trở các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và để lại hình ảnh xấu về một đô thị hiện đại trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Để đánh giá khả năng thoát nước, người ta thường lấy tiêu chuẩn chiều dài bình quân cống trên đầu người. Các đô thị trên thế giới tỷ lệ trung bình là 2m/người, ở nước ta tỷ lệ này tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng là 0,2 đến 0,25m/người; còn lại chỉ đạt từ 0,05 đến 0,08m/người. Mặt khác trong từng đô thị, mật độ cống thoát nước khác nhau, khu trung tâm đặc biệt là các khu phố cũ, mật độ cống thoát nước thường cao hơn các khu vực mới xây dựng. Ngoài ra, nhiều đô thị gần như chưa có hệ thống thoát nước, nhất là các thị xã tỉnh lỵ vừa được tách tỉnh.

Theo báo cáo của các công ty thoát nước và công ty môi trường đô thị, tất cả các thành phố, thị xã của cả nước đều bị ngập úng cục bộ trong mùa mưa. Có đô thị 60% đường phố bị ngập úng như Buôn Mê Thuột của Đắc Lắc, TP. Hồ Chí Minh (trên 100 điểm ngập), Hà Nội (trên 30 điểm), Đà Nẵng, Hải Phòng cũng có rất nhiều điểm bị ngập úng. Thời gian ngập kéo dài từ 2 giờ đến 2 ngày, độ ngập sâu lớn nhất là 1m. Ngoài các điểm ngập do mưa, tại một số đô thị còn có tình trạng ngập cục bộ do nước thải sinh hoạt và công nghiệp (Ban Mê Thuột, Cà Mau). Ngập úng gây ra tình trạng ách tắc giao thông, nhiều cơ sở sản xuất dịch vụ ngừng hoạt động, du lịch bị ngừng trệ, hàng hóa không thể lưu thông. Hàng năm, thiệt hại do ngập úng theo tính toán sơ bộ lên tới hàng nghìn tỷ đồng và làm xấu hình ảnh của các đô thị hiện đại, giảm năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

Đến thời điểm hiện nay mới có 12 thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hạ Long, Huế, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Cần Thơ, Bắc Ninh, Hải Dương và Vinh có các dự án có trạm xử lý nước thải đô thị công suất trên 5000 m3/ngày đêm đang trong giai đoạn qui hoạch và xây dựng.

Một số nhà máy đã đi vào hoạt động nhưng thực tế chỉ vận hành chưa tới 50% công suất thiết kế, tỷ lệ đấu nối vào hệ thống thoát nước khoảng 65%. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý khoảng 12% (các dự án hoàn thành đạt khoảng 15% ở các đô thị loại 3 trở lên).

Hoạt động thoát nước tại Việt Nam chủ yếu do Nhà nước đảm nhận, với tốc độ đô thị hóa mạnh trong 30 năm qua. Quy mô các đô thị đều tăng nhanh hơn tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng. Chính vì thế, hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay đều không đáp ứng được nhu cầu của lượng dân cư đô thị. Đầu tư cho hệ thống thoát nước cần một nguồn lực tài chính rất lớn, trong khi khả năng sinh lợi trong lĩnh vực này lại rất thấp, chính vì thế Nhà nước rất khó huy động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách đầu tư vào khu vực này.

Hiện nay, hệ thống thoát nước phổ biến nhất ở các đô thị của Việt Nam là hệ thống thoát nước chung. Phần lớn những hệ thống này được xây dựng cách đây khoảng 20 - 30 năm và lâu hơn, chủ yếu để thoát nước mưa, chúng được sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng không đều nên đã xuống cấp nhiều; việc xây dựng bổ sung được thực hiện một cách chắp vá, không theo quy hoạch lâu dài, không đáp ứng được yêu cầu phát triển đô thị.

Theo đánh giá của các công ty thoát nước, công ty môi trường đô thị tại các địa phương và các công ty tư vấn, có trên 50% các tuyến cống đã bị hư hỏng nghiêm trọng cần phải sửa chữa, 30% các tuyến cống đã xuống cấp, chỉ khoảng 20% vừa được xây dựng là còn tốt.

Hiện nay, trên 60% trong số 1 triệu m3 nước thải/ngày/đêm từ các khu công nghiệp xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận, không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở nhiều nơi. Công trình vệ sinh hộ gia đình phổ biến nhất ở các đô thị là bể tự hoại, chiếm trên 90% hộ gia đình, tỷ lệ này rất khác nhau ở các đô thị. Theo đó, các vấn đề tồn tại đối với thoát nước hộ gia đình ở đô thị phổ biến là do có nhiều hộ gia đình có nhà tiêu tự hoại nhưng lại không được đấu nối vào hệ thống cống chung do không có mạng lưới cống trong các ngõ. Kết quả là nước thải chảy vào các rãnh hở hoặc chảy ra xung quanh hoặc ngấm vào đất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống nguồn nước ngầm. Hệ thống cống thoát nước riêng chỉ được xây dựng trong khoảng thập kỷ vừa qua nhưng cũng chỉ được thực hiện ở một số rất ít địa phương của Việt Nam. Từ thực tiễn đã khảo sát và đối chiếu so sánh với hoạt động thoát nước tại một số quốc gia trong khu vực và thế giới có thể thấy:

- Việc qui hoạch, xây dựng hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế chưa theo kịp với tốc độ phát triển của đô thị hiện đại; việc quản lý phối hợp giữa các ngành giao thông công chính và các ngành khác chưa chặt chẽ, đã gây ra không ít những khó khăn và phức tạp trong quản lý thoát nước hiện nay.

- Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải ở các đô thị của Việt Nam được tiến hành qui hoạch và xây dựng cải tạo không đồng thời và đồng bộ với qui hoạch phát triển đô thị. Trong khi quy hoạch đô thị luôn bị thay đổi theo mỗi giai đoạn khác nhau.

- Việc xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường tại nguồn tiếp nhận, đa phần nước thải trong đô thị vẫn chưa qua xử lý thô, do đó các sông và hồ đều bị ô nhiễm nặng nề vì cách xả thải trực tiếp này.

- Hệ thống thoát nước đô thị có công suất nhỏ và bị gây cản trở dòng chảy bởi các nguyên nhân khác nhau (ví dụ: túi nilon) đã gây ra hiện tượng úng, ngập cục bộ tại các đô thị khi mưa, hiện tượng này hiện nay tương đối phổ biến, gây ảnh hưởng đến đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh và huy hoại tài sản của cư dân đô thị.

- Quá trình quản lý và xử lý nước thải đã có nhiều chuyển biến, tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa bắt nhịp kịp cùng với cải cách hành chính của khu vực công, quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý còn ở mức thấp, việc phân cấp quản lý vẫn còn nhiều bất cập trong từng khâu, thể hiện qua sự phối hợp không đồng bộ khi xử lý các sự cố về thoát nước phát sinh.

- Dịch vụ thoát nước hiện nay nếu không được đầu tư đầy đủ và có chiến lược phát triển đồng bộ sẽ rất khó để đáp ứng được các yêu cầu trong hội nhập quốc tế. Các tiêu chí về chất lượng sống và năng lực cạnh tranh của đô thị sẽ bị ảnh hưởng rất lớn từ vấn đề quản lý và xử lý nước thải này.

2. Quản lý môi trường phòng ngừa úng ngập đô thị trong hiện nay

Quốc hội khóa XIII đã qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 với nhiều quy định mới đề cập đến những vấn đề nóng đang đặt ra trong công tác BVMT hiện nay, như: Ứng phó với biến đổi khí hậu; thúc đẩy tăng trưởng xanh, sản phẩm thân thiện với môi trường gắn với phát triển bền vững; xây dựng quy hoạch môi trường; bổ sung quy định nội dung quản lý nhà nước về BVMT, cụ thể hóa quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong BVMT.

Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp, nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia. Quản lý nhà nước đối với môi trường trước đây chủ yếu dựa vào cơ chế quản lý mệnh lệnh và kiểm soát bằng các công cụ luật pháp và chính sách. Nhưng khi nền kinh tế thị trường phát triển thì cơ chế quản lý nhà nước đối với môi trường cũng thay đổi, vận hành theo quy luật cung cầu của thị trường. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động vận hành theo đúng hướng, ổn định và phát triển.

Vai trò của Nhà nước thể hiện qua việc xây dựng và hoàn thiện các quy định phát luật về bảo vệ môi trường nước đô thị, Chính phủ đã ban hành Nghị định 154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải, tại Hà Nội thì Luật Thủ đô nghiêm cấm san lấp, lấn chiếm, gây ô nhiễm sông, suối, hồ. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành 07 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước, 13 quy chuẩn về nước thải, đặc biệt, có 03 quy chuẩn nước thải cho Thủ đô Hà Nội với các ngưỡng giới hạn cho phép thắt chặt hơn so với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

Hàng năm ngân sách nhà nước vẫn cấp để duy trì và đảm bảo hệ thống thoát nước. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước thì không đủ để đáp ứng với những diễn biến ngày càng phức tạp của các vấn đề môi trường, chưa kể đến những hạn chế trong việc duy trì lâu dài cũng như huy động vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ Đề án về cơ chế đột phá huy động nguồn lực, thu hút đầu tư, xã hội hóa BVMT, thực hiện đúng nguyên tắc “người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho BVMT; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại”.

Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần trong nền kinh tế luôn quan tâm đến việc hoàn thành trách nhiệm đối với môi trường của các chủ thể trực tiếp và gián tiếp gây ra ô nhiễm môi trường nước, gây cản trở dòng chảy thoát nước. Cần phải để thị trường cô lập các sản phẩm của các tổ chức gây ô nhiễm, gây áp lực bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ đối với môi trường của từng tổ chức trong nền kinh tế.

Cộng đồng dân cư chính là người chịu tác động lớn nhất của hiện trạng ngập úng cục bộ tại các đô thị. Vì vậy, cộng đồng dân cư sẽ gây áp lực và giám sát các tổ chức gây ô nhiễm môi trường phải thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với môi trường. Hoạt động quản lý môi trường thông qua các quy định không chính thức chủ yếu được hiệu lực hóa thông qua các tổ chức cộng đồng hay các tổ chức phi chính phủ.

Trong những năm qua, bộ máy quản lý môi trường đã giải quyết được một phần về thoát nước đô thị. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích thực trạng thoát nước tại các đô thị, thấy vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế sau cần khắc phục:

- Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do úng, ngập gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường. Mặc dù đã có các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự nhưng chưa đầy đủ và cụ thể nên khó thực hiện trên thực tế. Nhiều quy định về xã hội hóa hoạt động thoát nước đô thị mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, thiếu cơ chế phù hợp để thực hiện nên chưa phát huy được hiệu quả.

- Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường trong phòng chống ngập, úng chậm đổi mới, chưa đồng bộ với thể chế thị trường. Các loại thuế, phí về xả nước thải ra môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế xả thải gây ô nhiễm môi trường, thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững.

- Bộ máy quản lý nhà nước về xử lý nước thải dù đã được kiện toàn nhiều lần nhưng vẫn chưa đồng bộ và thống nhất từ Trung ương đến địa phương, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia, chưa ngang tầm với yêu cầu về thoát nước đô thị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Việc phân công nhiệm vụ xử lý nước thải và thoát nước để bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo và chưa hợp lý.

- Chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường đã đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm, nhưng còn dàn trải. Tại một số địa phương, việc sử dụng nguồn chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường chưa đúng mục đích, chưa hiệu quả. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp.

3. Một số khuyến nghị cho quản lý môi trường trong phòng ngừa ngập úng

Theo dự báo xu hướng đô thị hóa tại Việt Nam tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới, đặc biệt, hai đô thị là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh mật độ dân số ngày càng tăng cao. Đô thị hóa và biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng lớn đến hệ thống thoát nước đô thị trong thời gian tới. Điều này sẽ làm cho hiện tượng ngập úng cục bộ tại các đô thị trở nên phổ biến hơn. Chính vì thế, cần có giải pháp đồng bộ để giải quyết những vấn đề còn tồn tại hiện nay trong quản lý và vận hành hệ thống thoát nước tại các đô thị như sau:

- Tiến hành rà soát một cách toàn diện hệ thống chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, để đảm bảo đồng bộ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hài hòa với thiên nhiên trong điều kiện mới.

- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với lực lượng cảnh sát môi trường trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong xả thải ra môi trường gây ngập úng cục bộ.

- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xử lý nước thải và thoát nước đô thị; có chính sách thúc đẩy sự tham gia và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp. Huy động vốn từ hợp tác quốc tế, xã hội hóa, vốn đầu tư khác để di dời cơ sở sản xuất, di dời dân cư, đầu tư công nghệ…

- Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, hình thành ý thức tự giác bảo vệ môi trường trong nhân dân. Cộng đồng dân cư cần hạn chế sử dụng túi nilon, không vứt rác thải xuống hệ thống thoát nước, phối hợp với chính quyền giám sát các tổ chức gây hại cho môi trường.

Công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam hiện đang còn nhiều bất cập phát sinh từ chính nội tại của quá trình quản lý, cũng như từ khách quan của hiện trạng xã hội. Để góp phần giải quyết vấn đề này, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cần áp dụng tổng hợp và linh hoạt các nhóm giải pháp có liên quan đến các vấn đề như: Luật pháp - chính sách, kỹ thuật - công nghệ, kinh tế và tuyên truyền - giáo dục.

Tài liệu tham khảo:

1. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.

2. Lưu Đức Hải, Cẩm nang Quản lý môi trường, NXB Giáo dục Việt Nam năm 2013.

3. Nguyễn Thế Chinh, Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường, NXB Thống kê.

4. Anton, Danilo J. (1993), Thirsty Cities: Urban Environments and Water Supply in Latin America, IDRC, Ottawa, 197 pages.

4. Budds, Jessica and Gordon McGranahan (2003), "Are the debates on water privatization missing the point? Experiences from Africa, Asia and Latin America," Environment and Urbanization, Vol. 15, No. 2, pp. 87-114.

Some recommendations for environmental management in limiting damage caused by local flooding in urban areas

MA. NGUYEN THANH TUAN

Vietnam Academy of Science and Techonology

ABSTRACT:

In recent times, floods in urban areas have increased drastically and appeared more frequently. Damage caused by floods in urban area is ever-increasing, especially Hanoi and Ho Chi Minh City. The paper is based on the analysis of the role of environmental management activities to prevent local floods and flooding in Vietnamese cities, thus recommending solutions and solutions to minimize flooding, local stagnation, in order to avoid harm to the economy.

Keywords: Environmental management, urban, inundation, urban areas.