Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý khu, cụm điểm công nghiệp

Bên cạnh các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế được thành lập và hoạt động theo Nghị định 29/2008/ NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ, nhiều khu, cụm và điểm công nghiệp địa phương (KCĐCN)

1. Vài nét về tình hình phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp địa  phương

Theo Cục Công nghiệp Địa phương - Bộ Công Thương, hiện cả nước có khoảng 650 KCĐCN đã được thành lập (trong đó 636 KCĐCN đang được xây dựng hạ tầng và đã đi vào hoạt động). Các KCĐCN này được hiểu là nơi tập trung sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất CN-TTCN. Các khu, cụm và điểm công nghiệp này có ranh giới địa lý xác định, nằm cách biệt với khu dân cư, do Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương thành lập.

Tổng diện tích đất dành cho 649 KCĐCN này là 30.096 ha (diện tích đất trung bình của một KCĐCN là 46ha). Diện tích đất của 636 KCĐCN thực tế đã triển khai xây dựng là 22.091 ha trong đó 9.731 ha đã được cho thuê (chiếm khoảng 44% diện tích đất thực tế đã triển khai xây dựng). Khu vực Đồng bằng sông Hồng chiếm phần lớn số lượng các KCĐCN (324) và diện tích đất dành cho các KCĐCN (12.314 ha). Các KCĐCN đã thu hút một số lượng lớn các doanh, trong đó các nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên 60%. Tổng mức vốn đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp vào KCĐCN khoảng hơn 560 tỷ đồng. Sự phát triển của các KCĐCN đã giải quyết vấn đề mở rộng mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp công nghiệp nông thôn. Đồng thời, các KCĐCN góp phần khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở các làng nghề. Do đó, các KCĐCN đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn theo hướng công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, sự phát triển của các KCĐCN đang gặp phải nhiều khó khăn và việc quản lý các KCĐCN đang còn nhiều bất cập. Theo Cục Công nghiệp Địa phương, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong các KCĐCN còn nhiều yếu kém. Trừ một số KCĐCN được đầu tư bởi các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh cơ sở hạ tầng lớn như các doanh nghiệp FDI, kết cấu hạ tầng của phần lớn các KCĐCN chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp muốn đầu tư vào. Hệ thống xử lý chất thải hầu như chưa được chú ý đầu tư nên môi trường nhiều KCĐCN bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt, ở khu vực làng nghề như KCĐCN giấy Phong Khê, Bắc Ninh hay KCĐCN sản xuất sắt thép ở Châu Khê, Bắc Ninh. Một trong những nguyên nhân là do ngân sách của các địa phương còn nhiều  hạn chế. Bên cạnh đó, do thiếu các chính sách thu hút mời gọi đầu tư, nên không có nhiều doanh nghiệp mặn mà tham gia đầu tư và kinh doanh hạ tầng các KCĐCN. Bên cạnh đó, công tác giải phóng mặt bằng ở nhiều KCĐCN rất chậm, không đáp ứng được nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp. Hiện trạng KCĐCN làng nghề La Phù, Hà Nội (Hà Tây cũ) là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, còn có nhiều khó khăn khác như thủ tục cho thuê đất trong các KCĐCN còn rườm rà, phí thuê mặt bằng quá cao so với khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là đối với các hộ gia đình ở các làng nghề. Đồng thời, vấn đề quản lý các KCĐCN cũng gặp nhiều khó khăn do chưa có hệ thống văn bản thống nhất để quy hoạch và quản lý. Hiện nay cũng chưa có cơ quan nào đứng ra làm đầu mối quản lý các KCĐCN, nên thông tin về các dự án đầu tư hạ tầng các KCĐCN và các dự án đầu tư vào trong các KCĐCN hầu như chưa được tổng hợp, phục vụ cho việc quy hoạch và quản lý.

2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các KCĐCN

Việc xây dựng và ban hành những qui định một hành lang pháp lý nhằm quy hoạch và quản lý đồng bộ, thống nhất các KCĐCN là vấn đề cấp thiết, cần phải được sớm thực hiện theo các nội dung chủ yếu sau:

a. Thống nhất tên gọi cho các KCĐCN:

Nên sử dụng một tên gọi thống nhất cho các KCĐCN là “khu công nghiệp địa phương” (local industrial zone). Thực chất các KCĐCN hiện nay về bản chất chính giống như các khu công nghiệp đang hoạt động theo Nghị đinh 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ. Điểm khác biệt ở đây chỉ là có quy mô nhỏ hơn và được thành lập và quản lý bởi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì vậy, tên gọi “khu công nghiệp địa phương” phản ánh được bản chất này. Đồng thời, không nên sử dụng tên gọi “cụm công nghiệp” cho các KCĐCN vì cụm công nghiệp (industrial cluster) được hiểu là “sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm giống nhau hoặc liên quan tới nhau trong một khu vực địa lý nhỏ” (Sonobe và Otsuka, 2006), chứ không đơn thuần chỉ là một khu vực khép kín, tách biệt với khu vực dân cư được đầu tư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Vì vậy, khu công nghiệp địa phương thường chỉ là một phần của cụm công nghiệp. Ví dụ như khu công nghiệp địa phương ở xã

Châu Khê là một khu vực rộng 13,5 ha nằm trong cả làng nghề sản xuất sắt thép rộng lớn ở xã Châu Khê (tập trung chủ yếu ở làng Đa Hội).  Đồng thời, trong khái niệm khu công nghiệp địa phương, cần nhấn mạnh ý nghĩa của sự tập trung các doanh nghiệp (công ty hoặc hộ gia đình) cùng sản xuất một loại sản phẩm hoặc  những sản phẩm có liên quan tới nhau (ví dụ các doanh nghiệp sản xuất bộ phận và các doanh nghiệp lắp ráp). Lý do là vì các doanh nghiệp này khi tập trung lại sẽ phát huy được tính kinh tế tập trung (agglomeration economy). Vì vậy, nên có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này hoạt động trong khu công nghiệp địa phương.

Một vấn đề nữa liên quan tới khái niệm khu công nghiệp địa phương là giới hạn về diện tích đất. Ở đây, không nên có những quy định hạn chế về diện tích đất tối đa và tối thiểu đối với các khu công nghiệp địa phương, vì điều này sẽ tạo ra khó khăn cho các địa phương trong việc xây dựng và mở rộng trên cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp và tình hình thực tế của địa phương.

b. Vấn đề xây dựng mới và mở rộng các khu công nghiệp địa phương

Cần phải có những quy định cụ thể nhằm quản lý việc sử dụng đất đai xây dựng các khu công nghiệp địa phương một cách hiệu quả, tránh tình trạng xin phép xây dựng tràn lan và lãng phí. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp địa phương cũng sẽ có những rủi ro nhất định giống như bất kỳ hình thức kinh doanh nào khác. Chính vì vậy, cần tránh những quy định gây  cản trở cho việc xây dựng mới hoặc mở rộng các khu công nghiệp địa phương có tiềm năng, ví dụ như quy định về số lượng các doanh nghiệp đăng ký ban đầu phải lấp đầy một tỷ lệ tối thiểu nào đó thì khu công nghiệp địa phương mới được xây dựng hoặc mở rộng.

Bên cạnh đó, nên có các ưu đãi đặc biệt để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp địa phương, đặc biệt là ở các làng nghề. Điều này vừa góp phần xã hội hóa việc phát triển, vừa nâng cao hiệu quả xây dựng và quản lý các khu công nghiệp địa phương.

c. Vấn đề thu hút các doanh nghiệp vào khu công nghiệp địa phương

Các khu công nghiệp địa phương thường tập trung thu hút các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, có rất nhiều cơ sở sản xuất, đặc biệt là một số lượng lớn các cơ sở sản xuất hộ gia đình ở các làng nghề, không đăng ký kinh doanh nhưng có quy mô hoạt động sản xuất khá lớn và nhiều tiềm năng. Những cơ sở sản xuất này nếu được khuyến khích di chuyển từ khu vực dân cư chật hẹp vào các khu công nghiệp địa phương sẽ không những phát triển mạnh hơn mà còn góp phần làm giảm tác động ô nhiễm môi trường tới người dân trong làng nghề và tạo điều kiện quản lý các cơ sở này tốt hơn.

Việc quản lý các cơ sở trong khu công nghiệp địa phương cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng, nhằm khuyến khích các cơ sở sản xuất – kinh doanh di chuyển vào. Những quy định về đăng ký, xây dựng, đảm bảo môi trường, an toàn lao động cần phải xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm hướng dẫn thi hành và thời hạn cụ thể các cơ quan này phải trả lời khi nhận được yêu cầu từ phía các doanh nghiệp.

d. Về ưu đãi các doanh nghiệp trong khu công nghiệp địa phương

Như đã trình bày ở trên, cần chú trọng tạo điều kiện và ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc có liên quan tới nhau vào trong khu công nghiệp địa phương. Đồng thời nên ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp địa phương để thu mua, tiêu thụ hàng hóa cho các doanh nghiệp sản xuất khác nằm trong khu công nghiệp địa phương hoặc nằm  trong các làng nghề. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các làng nghề vì tiêu thụ sản phẩm có lẽ là vấn đề gay go nhất của các làng nghề nói riêng và của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung ở Việt Nam hiện nay.

 

Tài liệu tham khảo: Cục Công nghiệp Địa phương. (2008) “Báo cáo tổng quan tình hình phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp trong phạm vi cả nước,” Hội thảo phát triển bền vững cụm công nghiệp khu vực miền Bắc, tại Hải Phòng.

Sonobe, Tetsushi., và Otsuka, Keijiro. (2006) Cluster-Based Industrial Development: An East Asian Model (New York: Palgrave Macmillan).

Vũ Hoàng Nam. (2008) “Bàn về cụm công nghiệp làng nghề ở Việt Nam,” Tạp chí Công nghiệp (Kinh tế quản lý), Số tháng 10/2008, pp 35.

  • Tags: