I. ĐIỀU TIẾT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG

Luật thuế hải quan mới của Liên Bang Nga cùng với một hệ thống tên gọi cho các nhóm hàng hoá XNK (TN VET RF) bắt đầu được áp dụng từ 1/4/2000. Hệ thống tên gọi cho các nhóm hàng hoá XNK (TN VET RF) dựa trên hệ thống miêu tả, mã hoá hàng hoá và cách đặt tên gọi trong hoạt động ngoại thương của các nước SNG, nhưng khác với hệ thống tên gọi cũ (có 9 chữ số) thì trong hệ thống mới này hàng hoá được mã hoá với mười chữ số. Hệ thống tên gọi này là cơ sở để miêu tả và đánh mã hàng hoá, đồng thời để xây dựng luật thuế hải quan của Liên Bang Nga, xác định các biện pháp điều tiết hoạt động ngoại thương của nhà nước và quản lý thống kê hải quan (Nghị định số 148 của Chính phủ Liên Bang Nga kể từ ngày 22/2/2000).

Trình tự đăng ký các hợp đồng về hợp tác quốc tế và ngoại thương do các cơ quan chính quyền của các chủ thể thuộc Liên Bang Nga ký đã được thông qua Bộ Tư Pháp Liên Bang Nga thực hiện việc nhận hợp đồng đăng ký và có trách nhiệm:

1. Nhận quyết định đồng ý hoặc từ chối nhận đăng ký.

2. Phòng công chứng Nhà Nước trực thuộc Bộ Tư Pháp đánh số đăng ký cho mỗi hợp đồng.

3. Vào danh sách các hợp đồng được các cơ quan chính quyền Nhà nước của các chủ thể thuộc Liên Bang Nga ký.

Các hợp đồng bị từ chối nhận đăng ký nếu có mâu thuẫn với: Hiến pháp Liên Bang Nga, các quy tắc và chuẩn mực về quyền quốc tế, các công ước quốc tế của Liên Bang Nga, luật pháp Liên Bang Nga, các hiệp ước giữa các cơ quan chính quyền Liên Bang Nga và các cơ quan chính quyền của các chủ thể Liên Bang Nga; hay vi phạm quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác thuộc Liên Bang Nga (Nghị định số 552 chính phủ Liên Bang Nga kể từ 24/7/2000).

Chính Phủ Liên Bang Nga đã phê duyệt danh sách các hàng hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu được miễn thuế hải quan, bao gồm:

1. Các công -ten -nơ và các loại bao bì đóng gói NK/XK

2. Các hàng hoá được nhập khẩu, xuất khẩu có mục đích hỗ trợ hoạt động ngoại thương như: hàng mẫu, giấy tờ quảng cáo, vật trưng bày triển lãm, hội trợ ...

3. Các hàng hoá được nhập khẩu, xuất khẩu với mục đích tài trợ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, văn hoá , điện ảnh, thể thao, du lịch.

4. Các hàng hoá được nhập khẩu , xuất khẩu với mục đích tài trợ quốc tế.

Điều kiện để các hàng hoá trên được miễn thuế hải quan là thời hạn xuất nhập khẩu của chúng không dưới 1 năm. Trong trường hợp quá 1 năm thì các hàng hoá này được miễn một phần theo luật hải quan Liên Bang Nga (Nghị định số 599 của Chính phủ Liên Bang Nga từ 16/8/2000). Tại biên giới Liên Bang Nga và cộng hoà Bêlarus, hàng hoá chuyển từ Nga sang Bêlarus hoặc Bêlarus sang Nga vẫn không được miễn kiểm tra hải quan (trước đây các cơ quan hải quan không phải làm thủ tục cho hàng hoá). Đồng thời việc khai báo hàng hoá dự tính cũng sẽ được đơn giản hơn (nghị định số 619 chính phủ Liên Bang Nga từ 22/8/200)

Chính phủ Nga cho phép cắm cờ nước ngoài được vận chuyển và kéo hàng giữa các cảng biển của Liên bang Nga (vận tải ven biển) trong trường hợp:

1. Các tàu chuyên dụng không phải là tàu của Liên bang Nga, có thể chuyên chở và kéo hàng

2. Khi các tàu của Liên bang Nga không thể vận chuyển và kéo hàng cấp tốc thì các tàu nước ngoài phải đảm bảo vận chuyển và kéo hàng cấp tốc.

Các tầu nước ngoài chỉ được chuyên chở và kéo hàng dọc bờ biển giữa các cảng được mở dành cho các tàu nước ngoài vào (Nghị định số 104 chính phủ Liên bang Nga từ 24/5/2000)

Để hoàn thiện hoạt động của các cơ quan hải quan trong việc đảm bảo nguồn thu của ngân sách các cơ quan hải quan trong vùng hoạt động của mình, phải tính toán và kiểm tra kỹ hoạt động của các đối tượng xuất nhập khẩu trong việc nộp các khoản phí hải quan theo lụât hải quan, đồng thời đưa ra được các tiêu chuẩn để phân loại (lựa chọn) cách tiến hành công việc đối với các đối tượng xuất nhập khẩu lớn .

Uỷ ban hải quan Quốc gia Nga (GTK) chỉ rõ ràng các hiệp định về các điều khoản chung bộ máy cơ chế hỗ trợ phát triển hoạt động sản xuất của các xí nghịêp và các ngành sản xuất của các nước thành viên SNG được ký 23/12/1993 chỉ có tác dụng hiệu lực ở những nước phê chuẩn Hiệp định này,

UBHQQG Nga(GTK) quy định rằng không thu phí hải quan đối với những hàng hoá có gía trị< 100 euro và việc khai báo hàng hoá đó phải phù hợp vời điều 2.2 sắc lệnh số 84,8 của UBHQQG Nga 16/12/1998 về trình tự thực hiện khai báo hải quan cho hàng hoá được vận chuyển

Theo hiệp định, hàng hoá được vận chuyển giữa Liên bang Nga và một trong những nước sau: Adecbaizdan, Belarus, Grudia, Cadăcxtan, Mônđôva,Tadikistan, Ucraina sẽ phải được kê khai hải quan 1 cách đơn giản.

Hải quan Liên bang Nga cho phép hàng hoá cùng với tài liệu, và các phương tiện giao thông qua biên giới nếu chấp hành luật Hải quan Nga là phải bị kiểm tra lại điểm đến của hàng hoá, nghĩa là được phép vận chuyển :

1. Từ bất kỳ trạm hải quan nào trên lãnh thổ liên bang Nga tới trạm đầu tiền trên lộ trình cuả hàng hoá và phương tiện nằm trên lãnh thổ nước cộng hoà Bêlarus.

2. Giữa các trạm hải quan liên tiếp nhau của Liên bang Nga và cộng hoà Cadăcxtan.

3. Từ một trạm hải quan nằm trên lãnh thổ quốc gia thành viên của khối liên hiệp về hải quan tới bất kỳ 1 trạm hải quan nào nằm trên lãnh thổ liên bang Nga, trên cơ sở phù hợp với quy định của UBHQQG Nga đối với mỗi hình thức vận chuyển cụ thể (Sắc lệnh số 275 của UBHQQG Nga kể từ ngày 5/4/2000).

Theo quy định của UBHQQG Nga, bên cạnh các bước làm thủ tục hải quan và kiểm tra đối với những hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng không thì các bước kiểm tra hải quan được tiến hành đầy đủ trong trường hợp trọng lượng chung của hàng hoá được vận chuyển bằng phương tiện giao thông không > 85% trọng tải tối đa của phương tiện đó (Sắc lệnh số 632 của UBHQQG Nga từ 25/7/2000).

Chính phủ Nga đã quyết định Liên bang Nga rút khỏi hiệp định cho phép công dân các nước SNG được tự do đi lại không cần visa trên lãnh thổ các nước thành viên SNG kể từ ngày nhận được thông báo của Ban chấp hành SNG (Nghị định số 641 chính phủ Liên bang Nga từ 30/8/2000)

1.  Điều tiết xuất khẩu

2.  Các trường hợp không chịu thuế

Hạn ngạch xuất khẩu của Liên bang Nga đến năm 2000:

1. Trứng các loại cá biển : gồm cá sống tổng số là 85,44 tấn, trong đó năm 1999 sản xuất 28,44 tấn

2, Sản lượng các loại cá biển, không tính trứng cá 220 tấn, trong đó 50 tấn là đánh bắt được năm 1999. Hạn ngạch xuất khẩu trên không được áp dụng cho các loại cá sống, các sản phẩm từ cá biển, trứng cá do các cơ sở nuôi cá cung cấp để xuất khẩu.(Sắc lệnh số 1077- của chính phủ Liên bang Nga từ 1/8/2000)

Vào quý 2/2000 nhiên liệu, xăng dầu, tôluen, các loại khí hydro cacbon vẫn tiếp tục được giao cho các công ty dầu khí và các nhà máy xử lý dầu, đảm bảo tạo sự cân bằng trong phân phối các sản phẩm dầu trên thị trường trong nước - Liên bang Nga .Các cơ quan hải quan làm thủ tục kê khai cho các sản phẩm dầu xuất khẩu đã được các nhà máy/cơ sở sản xuất dầu khí đệ trình khẳng định sự tồn tại của các nhà máy sản xuất dầu (Nghị định số 281 chính phủ Liên bang Nga 29/3/2000).

Hình thức điều tiết này đã và sẽ vẫn được áp dụng. Từ 1/9 đến 31/10/2000 hàng tháng các công ty dầu khí và các nhà máy dầu khí đều đặn giao hàng theo nhu cầu về khí đốt cho động cơ chạy bằng điêzen.

Ngoài ra, từ 1/12/2000 đến 31/3/2001 hàng tháng các công ty và nhà máy xăng dầu đều giao khí đốt lỏng, madút cho người tiêu dùng trong nước

Trong việc xuất khẩu các loại chất đốt (dầu khí và dầu ma dút) việc làm thủ tục hải quan vẫn được tiến hành như trước đây. (Nghị định 630 và 631 chính phủ Liên bang Nga 25/8/2000)

Để đảm bảo thực hiện đủ các cam kết Quốc tế kiểm tra xuất khẩu, Nga đã thay đổi bổ sung danh mục hàng hoá, thực hiện quy trình dán tem 2 lần, kiểm soát được hàng hoá xuất khẩu theo sắc lệnh số 1268 Tổng thống Liên bang Nga 26/8/1996 "về kiểm soát hoạt động xuất khẩu hàng hoá và công nghệ dán tem 2 lần cho các hàng hoá xuất khẩu từ Nga" (Sắc lệnh số 1477 Tổng thống Liên bang Nga 9/8/2000)

UBHQQG Nga khẳng định tầm quan trọng của việc kiểm tra hải quan đối với năng lượng điện tử được truyền qua biên giới Liên bang Nga.Các chính quyền hải quan liên bang Nga tiến hành kiểm tra hải quan năng lượng điện tử được truyền ra ngoài qua biên giới Liên bang Nga theo đường truyền dẫn điện từ đến các trạm biến áp nằm ngoài biên giới trên cơ sở thu phát điện từ người được kiểm tra tại các trạm hải quan.

Như một loại giấy tờ bắt buộc phải có để làm thủ tục hải quan cho năng lượng điện tử được truyền qua biên giới Liên bang Nga, các trạm hải quan luôn nhận các văn bản do người phát và người nhận nguồn năng lượng này lập nên. (Sắc lệnh UBHQQG Nga số 456 từ 1/6/2000)

Theo Nghị định số 189 chính quyền liên bang Nga 29/2/2000 Nga không cho phép xuất khẩu lúa mỳ ngoại trừ giao hàng theo những hợp đồng được ký trước ngày nghị định có hiệu lực(14/3/2000).

UBHQQG Nga đang tăng cường kiểm tra hải quan đối với các sản phẩm luyện kim đen và màu nhập khẩu. Một phần là vì hàng hoá nhóm 72 đến 81 TN VET được xuất khẩu theo quy chế xuất khẩu của Hải quan, trong đó có một số hàng chọn, mà các bước kiểm tra hải quan được tiến hành đầy đủ, ngoại trừ trường hợp xuất khẩu một số hàng cụ thể của các xưởng sản xuất kim loại.

Hàng xuất khẩu đã qua kiểm tra hải quan bắt buộc phải có sự uỷ nhiệm của Nhà nước mới được cấp giấy phép. Các trường hợp không được sự uỷ nhiệm của Nhà nước:

1. Các tài liệu đem trình không đủ hoặc không đúng.

2. Vi phạm nhiều lần hoặc vi phạm nghiêm trọng luật hải quan hoặc luật về kiểm tra xuất khẩu (Nghị định số 176 của chính quyền Liên bang Nga 29/2/2000). Bộ thuế quan đã cho biết thủ tục cấp giấy phép hoạt động cho các cơ sở sản xuất rượu cũng như các cơ sở sản xuất mỹ phẩm đã được đơn giản hoá.

Ngành sản xuất mỹ phẩm không phải chịu tiền thuế, phí xin cấp giấy phép để được cấp giấy phép hoạt động, các cơ sở phải trình các văn bản tài liệu cho thấy trong thiết bị của mình có khả năng bảo quản rượu (etyl alcohot) phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia và các điều kiện kỹ thuật (công văn số VBf-6-31/2/2000 của Bộ thuế quan 23/3/2000).

Trong trường hợp hàng đáp ứng quy định hải quan, nhập khẩu vào lãnh thổ vùng Calinhin, các nước khác thuộc liên bang Nga để xuất khẩu ra nước ngoài qua các cảng thuộc lãnh thổ Calinhin thì các cơ quan hải quan phải thực hiện các điều sau:

1.Nếu nhập khẩu các hàng hoá trên vào lãnh thổ Calinhin thì cho tới lúc xuất hàng vận chuyển hàng phải được kiểm tra theo thủ tục giao nhận hàng dưới sự giám sát của hải quan theo Sắc lệnh số 304 của UBHQQG Nga 20/5/1996

1. Các cơ quan hải quan thuộc vùng Calinhin tại các cảng biển xác thực việc xuất cảng hàng hoá này khỏi lãnh thổ Liên bang Nga theo đúng luật hải quan quốc gia (GTD) và phù hợp với tờ vận đơn thứ 2

(Công văn số 01-06/13644 UBHQQG -Liên bang Nga 23/5/2000)

Chi phí làm thủ tục và xin cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho các hàng hoá quân sự được xác định: gấp 10 lần tiền lương một lao động. Khi xin giấy phép phải trình bản sao giấy uỷ thác thanh toán về kê khai các khoản nộp vào ngân sách liên bang và đơn xin của các bên tham gia hợp đồng hợp tác về kỹ thuật quân sự .

Trong thủ tục xuất khẩu hàng hoá cũng cần có những người có tư cách pháp nhân phi thương mại. Để các pháp nhân xác định thời điểm xuất khẩu những hàng hoá không nhất thiết phải khai báo trên giấy tờ , bên ngoài lãnh thổ liên bang Nga, các cơ quan hải quan tại các cửa khẩu, theo (trình tự thực hiện) quy chế ưu đãi đã được đơn giản hoá, vạch đường kiểm tra hải quan rộng 50cm đánh dấu bằng hai màu xanh, trắng tại nơi làm thủ tục hải quan. Trường hợp hàng hóa vận chuyển qua đường vạch kiểm tra hải quan nhất thiết phải khai báo trên giấy tờ bằng văn bản.(Sắc lệnh số 633 của UBQQG Liên bang Nga 26/7/2000)

2.  Các trường hợp phải nộp thuế

Từ 1/8/2000 mức thuế hải quan đánh vào dầu thô và các sản phẩm dầu thô khai thác từ bitymen (mã số TN VET 270900) Liên bang Nga là 27euro/1000kg (trước đây 12euro/1000kg (Nghị định số 485 chính phủ Liên bang Nga từ 30/6/2000)

Từ 17/9/2000 hàng hoá xuất khẩu từ Liên bang Nga sang các nước thành viên của khối liên hiệp về hải quan là:

Nhiên liệu chưng cất nhẹ (mã số TN VET 2710001100 đến 2710603900).

Nhiên liệu chưng cất sơ (mã số TN VET 2710004100 đến 2710005900) và khí đốt như khí điêzen (mã số TN VET 2710006100 đến 2710006900) chịu mức thuế hải quan là 25 euro/1000 kg.

Trước đây mức thuế hải quan đối với nhiên liệu chưng cất nhẹ -20 euro/1000 kg nhiên liệu chưng cất sơ và khí đốt là 15euro/1000kg (Theo nghị định số 597 chính phủ Liên bang Nga kể từ 14/8/2000).

Từ 20/5/2000 mức thuế hải quan đối với hàng xuất khẩu là kim loại đen và kim loại phế thải (mã số TN VET Nga 7204) là 15% nhưng không dưới 15% euro/1000 kg trừ phôi kim loại tiện, mảnh vụn, phế thải sau khi phay kim loại (mã số TN VET Nga 7204 41 100 0) thì mức thuế là 5% ( Theo Nghị định số 351 của Chính Phủ Liên Bang Nga từ 15/4/2000).

Từ 1/7/2000 Nghị định số 1198 Chính phủ Liên Bang Nga 28/10/1999 quy định rằng mức thuế hải quan đối với xuất khẩu Nhôm chưa gia công là 5% giá trị hàng hoá lại được thực hiện, vì từ 1 đến 30/6/2000 mức thuế này chưa được áp dụng, có nghĩa là xuất khẩu Nhôm chưa gia công không bị đánh thuế.

Từ 31/4/2000 mức thuế Hải quan đối với củi đun, phôi gỗ và gỗ phế thải (mã số TN VET 4401) và các nguyên liệu thuê lấy từ cây bạch dương (mã số TN VET 4403 99 55000) xuất khẩu từ Nga sang các thành viên của khối liên hiệp hải quan là 5% giá trị hàng hoá - trước đây mức thuế là 10% nhưng không dưới 5 euro/1m3 (Theo Nghị định số 170 Chính phủ Liên Bang Nga từ 29/2/2000).

Chính phủ Liên Bang Nga đã phê duyệt mức thuế hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu từ Nga sang các nước thành viên của liên hiệp hải quan như sau: Các nguyên liệu thô từ cây thông (mã số TN VET 4101) là 6,5% nhưng không thấp hơn 2,5 euro/1m3 các nguyên liệu từ cây thông nhưng đã bị cưa xẻ (mã số TN VET 440710) là 6,5% nhưng không dưới 5 euro/1m3 xenlulô từ thông (mã số TN VET 470321000 0 đến 470421d000 0)- 10% nhưng không dưới 40 euro/1kg ( Theo nghị định số 242 Chính phủ Liên bang Nga 23/3/2000).

Từ 1/5/2000 mức thuế hải quan đối với xuất khẩu các mặt hàng sau được áp dụng trong 6 tháng :da lông các loại thú lớn có sừng (mã số TN VET 4101) -15% nhưng không dưới 150euro/1000kg (Theo nghị định số 269 Chính phủ Liên bang Nga từ 28/3/2000)

Từ 7/4/2000 mức thuế hải quan đối với xuất khẩu pôlime flo (mã số TN VET 390461 9000-3904 69000 0) ra khỏi Liên bang Nga không được áp dụng nữa .

Trước đây mức thuế hải quan đối với xuất khẩu hàng hoá này là 6,5% giá trị (Nghị định 187 Chính phủ Liên bang Nga 2/3/2000)

Trong thu thuế môn bài đối với khí thiên nhiên đã có những thay đổi. Đến 1/7/2000 thuế môn bài được thu đối với khí thiên nhiên do một số công ty dầu khí (AO "ga prom") dầu khí khai thác như :AO "công nghiệp dầu khí Ia kut", AO "công nghiệp dầu khí Xakhalin" và các tổ chức có tư cách pháp nhân của các công ty này.

1.Từ 1/7/2000 mức thuế O được áp dụng cho khí thiên nhiên với điều kiện: trước tiên phải do các tổ chức chuyên ngành khai thác ; thứ hai là được khai thác trên lãnh thổ được Chính phủ Liên bang Nga công nhận là tổ chức Liên bang Nga hoặc Cộng hoà Bêlarus.

2. Khí thiên nhiên do các tổ chức khác khai thác đều không phải nộp thuế môn bài.

1. Khí thiên nhiên được khai thác ngoài lãnh thổ Liên bang Nga và Bêlarus không được hưởng ưu đãi thuế môn bài, không kể là do công ty /tổ chức nào khai thác đi nữa ( Nghị định số 291 Chính phủ Liên bang Nga 4/2/2000).

Theo quy định của Uỷ ban Năng lượng Liên bang Nga, giá dịch vụ dẫn khí cho nhu cầu tiêu dùng của các nước thành viên khối liên hiệp hải quan là 0,8USD/1000m3 /100 km ( Không có thuế môn bài và NDS).

2.  Điều tiết nhập khẩu.

3.3.1 Các trường hợp không chịu thuế .

Ở đoạn đầu tiên của điều 1 Nghị định số 583 Chính phủ Liên bang Nga kể từ 28/6/1995 "về cách thức thực hiện sắc lệnh số 525 của Tổng thống Liên bang Nga và Bêlarus "đã bỏ câu "hoặc của các hàng hoá được tự do vận chuyển vào lãnh thổ Cộng hoà Bêlarus "có nghĩa là những hàng hoá được tự do lưu thông tại cộng hoà Bêlarus và nhập khẩu vào lãnh thổ Liên bang Nga phải được làm thủ tục xuất kiểm tra hải quan.Việc làm thủ tục và kiểm tra hải quan được thực hiện tại nơi nhận giấy thông báo hoặc tại các ga nhận hoặc chuyển hàng của nước thứ 3 là nước chuyển hàng qua lãnh thổ Liên bang Nga hoặc hàng hoá của nước thứ 3 được phép qua và tự do lưu thông lãnh thổ Bêlarus và nhập khẩu vào Liên bang Nga (Nghị định số 254 Chính phủ Liên bang Nga 24/3/2000 và sắc lệnh số 343 của UBHQQG Liên bang Nga 24/4/2000).

Theo Nghị định số 226 Chính phủ Liên bang Nga 18/2/1998 việc cấp giấy phép cho vô tuyến màu sẽ hết hạn vào 30/4/2000.

Từ 16/12/2000 đến 31/12/2001 đối với đường từ các nước đang phát triển đang hưởng chế độ ưu đãi của Liên bang Nga thì mức thuế ưu đãi khi nhập khẩu vào Nga vẫn được áp dụng với khối lượng là 3/65 tấn. Mức thuế hải quan đối với đường nhập khẩu trong phạm vi hạn ngạch thuế là mức ưu đãi (5% giá trị hàng hoá). Thuế hàng hoá đối với hàng hóa nhập khẩu trong phạm vi thuế suất sẽ được thu theo giấy phép do Bộ phát triển kinh tế và thương mại ưu đãi của Liên bang Nga cấp (Nghị định số 572 Chính phủ Liên bang Nga 28/7/2000) vào năm 2000 chính sách Hải quan ưu đãi của vùng tự do về hải quan áp dụng tại biệt khu kinh tế trong vùng Magađan, không được áp dụng đối với một số hàng hóa từ các nước khác nhập khẩu vào vùng này. Đó là : các loại tôm cá, sữa, các sản phẩm từ sữa, fomát tươi, trứng gà, khoai tây, bắp cải, lạp sườn, cá trích, cá hồi nước mặn, các loại mỳ ống, nước khoáng, nước uống có ga, nước quả mạch nha, bia, đồ uống có rượu, (trừ rượu Rum, wisky, cônhắc, thuốc lá). (Theo Nghị định 504 Chínhn phủ Liên bang Nga 7/7/2000).

Từ năm 2000 đến 2005 số lượng nhập khẩu một số loại hàng hoá từ các nước khác sẽ bị hạn chế theo như chính sách hải quan của vùng hải quan tự do thuộc biệt khu kinh tế vùng Calinhin bao gồm: thịt các loài thú lớn có sừng, lợn con, thịt chim nhà, các sản phẩm từ sữa, fomát, bơ, trứng gà, khoai tây, cà chua, hành, bắp cải, cà rốt, củ cải đỏ, dưa chuột, thìa là, rau mùi tây, bột, macgarin, lạp xường, cá mòi, cá trích hộp, bánh kẹo, một số loại mỳ ống, bánh mỳ trắng, men khô, nước khoáng thiên nhiên, bia, rượu nho, đồ uống có tỷ lệ rượu cao gồm cả vốt ca, thuốc lá, xăng dầu, khí ô xy, axêtylen, ête, tấm xốp, gạch xây, gạch men, gạch lát, bê tông, hộp đóng thực phẩm, ôtô con, đồ kim hoàn, đồ gỗ.

Việc bán đấu giá các hàng hoá trên vẫn được áp dụng như một cách để hạn chế về số lượng. Đối với những hàng hoá nhập xuất quá số lượng quy định thì không áp dụng chính sách hải quan vùng hải quan tự do (Nghị định số 504 chính phủ Liên bang Nga 7/6/2000) UBHQQG Nga quy định 5 trường hợp cho phép nhập khẩu các hàng hoá có dán tem không phải là tem thu phí môn bài cho phép.

1. Nhập khẩu những hàng hoá theo quy định của chính sách hải quan,không áp dụng với một số hàng kinh tế.

2. Nhập khẩu hàng hoá một số nhóm người nước ngoài có tư cách pháp nhân được hưởng ưu đãi hải quan.

3. Nhập khẩu hàng của những người có mục đích sản xuất hay kinh doanh.

4. Nhập khẩu các sản phẩm có chứa nồng độ thấp hơn 9% hoặc có dung lượng dưới 0,05 và lớn hơn 25 lít.

5. Nhập khẩu những hàng mẫu để trưng bầy .

 

II. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN 

Không áp dụng qui chế cho phép sử dụng các phương tiện liên lạc vô tuyến đối với các đài vô tuyến xách tay, thuộc dạng mạng tổ ong liên lạc vô tuyến di động, hiện đang nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga và quy chế này không áp dụng cho các thiết bị thuê bao đầu cuối thuộc các mạng liên lạc vệ tinh di động cá nhân của hệ thống Ebrearpake. Việc nhập các phương tiện liên lạc vô tuyến được thực hiện theo cam kết xuất trở lại theo chỉ dẫn trong bản khai báo khi qua kiểm tra hải quan đối với kiểu đài vô tuyến (thiết bị đầu cuối), các thông tin về người sở hữu (dựa theo giấy tờ, xác nhận cá nhân người đó ở đất nước đang cư trú).

Không yêu cầu quyết định cho phép của cơ quan thẩm tra nhà nước đối với việc liên lạc tại Liên bang Nga có sử dụng các đài vô tuyến sách tay thuộc mạng liên lạc dạng tổ ong đạt tiêu chuẩn Liên bang và khu vực, các loại đài có công suất nhỏ riêng biệt dùng cho cá nhân và các phương tiện liên lạc vô tuyến khác theo danh mục đã được thông qua (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga số 158 ngày 25/2/2000).

Có một thay đổi về kiểm kê quyết toán – hoá đơn khi bán hàng nhập khẩu. Những thay đổi đó đòi hỏi chỉ rõ trong bản quyết toán – hoá đơn tên nước sản xuất ra hàng hoá số TT? (văn bản thuế quan quốc gia). Không có bản quyết toán - hoá đơn hoặc trong đó không có thông tin đáng tin cậy về nước sản xuất ra hàng hoá hoặc số e T? (Văn bản thuế quan quốc gia) thì việc lưu thông hàng hoá có nguồn gốc nhập khẩu tại các chợ nội địa của Nga sẽ được xem như dấu hiệu vi phạm các qui chế hải quan hiện hành, áp dụng với người nhập hàng hoá này cũng như người bán chúng (công văn của uỷ ban thuế quan quốc gia ngày 18/2/2000, số 01-06/3940).

Việc người vận chuyển hàng hoá khi có thông báo của cơ quan thuế quan về việc chuyển hàng qua hàng rào thuế quan liên bang Nga phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá dạng CT-1 đối với các loại hàng hoá thuộc các nước – thành viên CHe (khối các quốc gia độc lập, trừ trường hợp vận chuyên hàng hoá phù hợp với Hiệp định M??, 1975) được xem là pháp lệnh hải quan của Liên bang Nga.

Trong trường hợp này việc không có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá dạng CT-1 không phải là cơ sở để từ chối chấp nhận thông báo về chuyển dịch qua hàng rào thuế quan, cũng như việc đăng ký và nhận thức các giấy tờ được yêu cầu trong thông báo.

Nếu thiếu giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá dạng CT-1, nhưng bằng các dấu hiệu gián tiếp có thể suy đoán rằng các hàng hoá này được xuất đi từ các nước thành viên của khối các quốc gia độc lập thì cơ quan thuế quan biên giới không tiến hành nhận thức hải quan mà tiến hành thực hiện quy chế, thông thường chuyển hàng hoá này tới các trạm thuế quan có chức năng dưới sự kiểm tra của hải quan.

Tăng cường kiểm tra hải quan đối với các hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Liên bang Nga theo đường bộ và đường sắt từ các nước Bănglađét, Việt Nam, Ấn độ, Inđonexia, Campuchia, Trung Quốc, Lào, Malaixia , Mianma, Cộng hoà Triều Tiên, Cigapura, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Srilanca. Điều này gắn liền với việc khai báo không đáng tin cậy của những hàng hoá này. Các hàng hoá liệt kê trên được vận chuyển bằng ô tô, phù hợp với hiệp định M? P , 1975 và đựng trong các bao đều cần được chứng nhận hải quan tại các cơ quan thuế đặc biệt. Khi chuyên chở bằng đường sắt trong các công ten nơ, bằng các địa điểm chuyển hàng tới và địa điểm xác nhận của hải quan xác định được các ga đường sắt đưa hàng hoá kể trên đến, có kho để bảo quản tạm thời và có bãi để công ten nơ với các phương tiện kỹ thuật cẩu dỡ đặc biệt. Trong bất kỳ trường hợp nào khi nhận thức hải quan và vào bằng đường bộ và đường sắt áp dụng các tiêu chuẩn đã quy định về tiến hành kiểm tra hải quan và di chuyển hàng hoá vào kho, lưu giữ tạm thời (lệnh của uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 11/5/2000, số 389).

Do ở một loạt các nước Châu Á ( trong đó có Trung Quốc, Bắc và Nam Triều Tiên) các gia súc mắc dịch lở mồm long móng nên khi chứng thực hải quan thịt và các sản phẩm từ thịt phải xuất trình các giấy tờ cần thiết của các cơ quan kiểm dịch và thú y đối với các loại hàng hoá đó được nhập vào từ các vùng Châu Á bằng tất cả các dạng vận tải, trong số này có cả những người vận chuyển số hàng hoá kể trên nằm trong quy chế chung được xem là những thành viên hoạt động kinh tế, ngoại thương, cũng như thuộc quy chế ưu đãi, giảm nhẹ. ( Công văn của uỷ ban thuế quan quốc gia ngày 161/5/2000, số 05- 15/12731).

Trên lãnh thổ các liên bang Nga cho phép sử dụng các dụng cụ y tế và kỹ thuật y tế được sản xuất trong nước và ngoài nước sau khi đã tiến hành đăng ký về mặt nhà nước theo quy chế quy định. Cục kiểm tra quốc gia về chất lượng, hiệu quả, sự an toàn của các loại thuốc và kỹ thuật y tế của Bộ y tế liên bang Nga cho phép sử dụng những thiết bị y tế và kỹ thuật y tế nhằm mục đích y tế . Trong tương lai kiểm tra việc chuẩn bị và xuất bản thường kỳ hướng dẫn về các thiết bị y tế và kỹ thuật y tế bị loại trừ ra khỏi các thiết bị được phép sử dụng cho mục đích y tế ( Lệnh của Bộ y tế Liên bang Nga ngày 10/5/2000, số 156).

Hải quan liên bang Nga đã quy định thời hạn trao trả các kết luận chứng thực hải quan đối với các hàng hoá nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga cho những người liên quan. Thời gian trao trả các kết luận trên là 3 ngày làm việc kể từ ngày người liên quan nộp giấy tờ cho bộ phận hải quan, mà việc chứng thực quyền hạn giải quyết của bộ phận này; hoặc 15 ngày làm việc kể từ ngày người liên quan nộp giấy tờ cho bộ phận hải quan , nhưng việc chứng thực không thuộc quyền hạn giải quyết của bộ phận này .

Hải quan nơi mà đơn yêu cầu gửi đến đưa ra kết luận chứng thực hải quan đối với các hàng hoá nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga, dựa theo kết quả kiểm tra các thông tin về mặt hàng tương ứng. Hải quan có quyền không đưa ra kết luận nếu trong đơn yêu cầu không có các thông tin khai báo hải quan đối với hàng được vận chuyển, tên mặt hàng, đất nước xuất hàng, đơn vị tính, số lượng hàng hoá, cúng như số và ngày chứng nhận phù hợp với hàng hoá. (Lệnh của uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga, ngày 14/8/2000/số 701 và 702).

 

III. THUẾ XNK ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG

1- Biểu thuế xuất nhập khẩu đường

Từ ngày 18/4/2000 áp dụng mức thuế các mức biểu thức cho thuế xuất nhập khẩu đường trắng ở mức 30% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,12 euro/kg; đối với đường nguyên liệu và các loại đường khác, thuế áp dụng ở mức 5% giá trị thuế, đối với các đồ chứa không tháo dỡ được dạng hình trụ có dung tích không lớn hơn 1 lít áp dụng mức thuế 20% giá trị thuế ( Nghị định chính phủ Liên bang Nga từ ngày 16/3/2000, số 223).

Ngoài ra, dựa trên cơ sở điều tra sơ bộ của Bộ thương mại liên bang Nga theo tuyên bố của Liên đoàn của những người sản xuất đường nước Nga, trong thời hạn tới ngày 14/6/2000 áp dụng thuế xuất nhập khẩu tạm thời đối với đường nguyên liệu mía (mã số THB' ? 1701 111000 và 1701 11 900 0; ở mức 10% giá trị thuế của nó ( Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ ngày 23/3/2000, số 241).

Các mức thuế xuất nhập khẩu áp dụng cho các loại đường kể trên có hiệu lực từ ngày 14/6/2000, bao gồm từ 15/6/2000 đến 15/12/2000 quy định mức thuế xuất nhập khẩu theo mùa đối với cácloại hàng hoá sau được nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga.

- Đường – nguyên liệu 40% giá trị thuế;

- Đường trắng – 45% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,15ero/1kg.

Thuế xuất nhập khẩu đối với đường nguyên liệu và đường trắng cũng được thu đối với những loại hàng hoá này được xuất từ cộng hoà Bilaruxia mà không thu thuế theo mùa hoặc không chuyển khoản tổng số thuế xuất nhập phải nộp vào ngân sách của Nga. ( Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 28/3/2000 số 266).

Từ 16/12/2000 thuế nhập khẩu đường nguyên liệu lại tăng từ 5% lên 30%, nhưng không ít hơn 0,09 euro/1kg (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 28/3/2000 số 266).

Từ 16/6/2000 hạ thuế nhập khẩu đối với các loại nước ép hoa quả và rau đóng hộp (mã số THB ,Nga 2009) với điều kiện giá trị của chúng cao hơn 30 euro trên 100 kg khối lượng tính, chúng được đặt trong các thùng, các két hoặc cả hòm khác có sức chứa không ít hơn 40 kg.

 

2 Biểu thuế xuất nhập khẩu đối với các loại nước ép

Thuế xuất nhập khẩu đối với nước ép trừ táo và cà chua, được quy định ở mức 5% giá trị thuế còn đối với nước ép táo và cà chua ở mức 10% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,05 euro trên 1 lít (mức thuế xuất nhập khẩu trước đây đối với tất cả các loại nước ép là 15%, nhưng không ít hơn 0,07euro/1lít. Ngoài ra, mức thuế xuất nhập khẩu đối với hàng của Đức giảm từ 15% xuống 5% giá trị thuế (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 11/5/2000, số 389).

3- Biểu thuế xuất nhập khẩu đối với thịt gia cầm

Từ ngày 15/8/2000 đối với thịt gia cầm và các sản phẩm chế biến từ các loại gia cầm ở dạng tươi, ướp lạnh hay đông lạnh ( mã TH' ? Nga 0207 ) áp dụng thuế xuất nhập khẩu ở mức 25% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,2 euro /1kg.

Trước đây mức thuế đối với thịt gà là 30% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,3 euro/1kg,

- Còn thịt gà tây, ngỗng và vịt là 15% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 0,15euro/1kg (Nghị định của chính phủ liên bang Nga từ 7/7/2000, số 501).

4 - Biểu thuế xuất nhập khẩu đối với ti vi và một số thiết bị nghe nhìn

Từ 15/8/2000 giảm thuế nhập khẩu đối với ti vi màu có kích cỡ màu hình không quá 42 cm ( mã số THB' ? Nga 8528 12520 0, 828 126201, 85228 12 7201, 8528 12 7601) xuống 20% giá trị thuế, nhưng không thấp hơn 21 euro/ 1 cái;

* Đối với ti vi có kích cỡ màn hình lớn hơn 42 cm, nhưng không quá 52 cm ( các mã THB' ? Nga 8528 12 5040, 8528 12 6202, 8528, 12 7202, 8528 12 7602 ) xuống 30% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 42 euro/1 cái;

* Màn hình lớn hơn 52 cm, nhưng không quá 72 cm ( các mã THB' ? Nga 8528 12 5600, 8528 12 6203, 852812 7203, 8528 12 7603) xuống 30% giá trị thuế, nhưng không ít hơn 51 euro/1cái (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 7/7/2000, số 502).

Đồng thời từ 15/8/2000 áp dụng thuế nhập khẩu đối với các thiết bị nghe, nhìn (mã số THB' ? Nga 8521 10 3000, 852540 9101, 8525 40 9901) ở mức 20 % giá trị thuế. Trước đây đối với các loại hàng hoá kể trên áp dụng thuế nhập khẩu hỗn hợp (Nghị định của chính phủ liên bang Nga từ 3/8/2000, số 503).

Từ ngày 6/9/2000 thuế nhập khẩu đối với các máy cán các sản phẩm kim loại cán nóng P B giảm từ 10 % xuống 5% giá trị thuế (Nghị định của chính phủ liên bang Nga từ 3/8/2000, số 579).

5. Biểu thuế xuất nhập khẩu đối với một số loại bia nhập khẩu

Từ ngày 1/4/2000 áp dụng thuế xuất nhập khẩu đối với 1 số loại bia nhập khẩu (mã THB' ? Nga 2204, 2205 và 2206), mang theo một loại thay đổi về quy chế nhận thực chúng. Nếu hàng hoá do chính thành của B' ? nhập phù hợp với hợp đồng ngoại thương ký đến ngày 1/4/2000 và đối với các hàng hoá này giá trị thuế quy định thấp hơn giá trị thuế được quy định trước đây, thì trước khi làm sáng tỏ tất cả các điều khoản của hợp đồng và giải quyết vấn đề về sự hợp pháp của việc sử dụng với tư cách là cơ sở để tính giá trị thuế trên cơ sở giá trong hợp đồng bị thay đổi, hàng hoá được giao cho thuế quan định giá tạm thời. Nếu có những thay đổi đáng kể về đặc điểm chất lượng nhập khẩu hàng hoá ở một thành viên nào đó của B' ? thì sẽ giải quyết vấn đề về tiến hành kiểm tra hoạt động quản lý tài chính của thành viên B' ? này ( Lệnh của uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 6/5/2000, số 01- 93/ 549).

6. Biểu thuế xuất nhập khẩu đối với Đệm axetat

Từ 12/5/200 với thời hạn 6 tháng ấn định thuế nhập khẩu ở mức 15% giá trị thuế đối với các loại hàng hoá sau :

- Đệm axetat dùng để sản xuất đầu lọc thuốc lá ( mã THB' ? 540342 0001 ) và đệm xơaxetat , có độ dài hơn 2 mét, độ khít tuyến tính của đệm lớn hơn 2000 tex (mét/kg), thích hợp để sản xuất đầu lọc thuốc lá- mã THB' ? 5502 00 9001 (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 8/4/2000, số 310).

7. Biểu thuế xuất nhập khẩu vói một số mặt hàng khác

Do nghị định số 988 của chính phủ Liên bang Nga từ ngày 3/9/99 đến ngày 8/3/2000 đã hết hiệu lực thực hiện thuế nhập khẩu ở mức 30% giá trị thuế đối với những mặt hàng sau: Ngọc trai, kim loại và đá quý, có dạng sơ đồ mạch điện rời, các chi tiết và kỹ thuật dân dụng, vũ khí và đạn ( trước đây thuế nhập khẩu những hàng hoá này là 20%).

Uỷ ban thuế quốc gia phê chuẩn việc phân công quyền hạn giữa các cơ quan thuế về việc kiểm tra giá trị thuế của các loại ô tô hạng nhẹ mới phụ thuộc vào giá đối với từng loại hàng. Đồng thời thực hiện nguyên tắc sau : giá trị thuế đang được ban hành đối với loại ô tô càng thấp thì cấp cơ quan thuế kiểm tra kết luận giá trị thuế càng cao ( có nghĩa là khi thông báo mức độ giá trị thuế khá cao thì trạm thuế quan hoặc hải quan tiến hành kiểm tra trực tiếp, còn trong trường hợp đánh giá thấp thì chức năng kiểm tra thuộc về cục thuế khu vực hoặc của uỷ ban thuế quốc gia liên bang Nga ) quy chế ấn định được áp dụng khi nhập các loại ô tô có tên sau: DAIHATSU, SUZUKI, MAFGA, MITSUBISHI, NISSAN, TOYOTA (Nhật); CITROEN, PLUGEOT, RENAVLT (Pháp); FIAT, ALA ROMEO, LANCIA (Ý); AUDI, BMW, MERCEDES-BENZ, OPEO,FORT, IVECO, VOLKSƯACTEN (Đức), SEAT (Tây Ban Nha); VOLVO, SAAB (Thuỵ Điển); CHRYR SLER (Hoa Kỳ); ROVER (Anh); SKODA (Tiệp), đồng thời áp dụng quy chế này cho tất cả các loại ô tô được sản xuất tại Triều Tiên ( lệnh của uỷ ban thuế quốc gia từ 17/7/2000, số 608).

Danh mục hàng hoá được miễn trả thuế nhập khẩu và H C được bổ sung điểm sau : Trang thiết bị có được nhờ kinh phí dự trù từ ngân sách liên bang để dùng sản xuất thức ăn cho trẻ em ( hoặc bộ phận dự trữ cho nó ) mà những trang thiết bị tương tự như vậy không đựợc sản xuất ở Liên bang Nga ( toàn bộ hoặc những bộ phận dự trữ của nó ) cả trang thiết bị dùng để sản xuất thức ăn cho trẻ em, có được nhờ những khoản vay nước ngoài mà những khoản vay này được các quốc gia và các chính phủ nước ngoài cho Liên bang Nga (Pháp lệnh liên bang từ ngày 27/5/2000 số 74-CP3).

Từ ngày 25/5/2000 có hiệu lực danh mục mới những hàng hoá nhập từ các nước phát triển và các nước đang phát triển, mà đối với các hàng hoá này khi nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga được ưu đãi thuế quan so với danh mục có hiệu lực trước đây trong số các hàng hoá ưu đãi ngoại trừ một loạt hàng thuộc nhóm 57 THB' ? Nga – các loại thảm và các chất phủ thuộc ngành dệt (Nghị định của chính phủ Liên bang Nga từ 25/5/2000, số 414).

Nhằm tăng cường kiểm tra việc chứng thực thuế quan và độ tin cậy của việc xác định nước xuất khẩu thịt gia súc, lợn và cừu ( tiêu chí hàng hoá 0201, 0202,0203,0204 THB' ?), các cơ quan thuế quan cùng với đại diện của các cơ quan kiểm tra thú y tiến hành kiểm tra thuế quan của các hàng hóa vừa được đề cập, khi những hàng hoá này được thông báo nhập từ các quốc gia – thành viên của khối các quốc gia độc lập. Trong trường hợp tiến hành kiểm tra thuế quan phát hiện thấy sự không phù hợp trong khai báo giữa khai báo về nguồn gốc của hàng hoá đựơc kê khai trong tài liệu thuế quan quốc gia, trong chứng nhận về nguồn gốc hàng hoá dạng CT-1, trong các giấy cáp báo nộp tiền và tài liệu đi kèm hàng hoá và các lời khai về xuất xứ ( sản xuất ), hàng hoá , được trực tiếp chỉ rõ trên bao bì, cũng như trong hàng hoá có bất kỳ vết cắt và tẩy xoá nào trên bề mặt thì sẽ tính đến thuế vì nước xuất những hàng hoá này được coi là không đúng quy định. H C phải nộp tiền, còn thuế nhập khẩu tính gấp đôi.

Phòng công thương Nga cung cấp cho các cơ quan thuế quan tin tức là việc giao cho các thành viên B' ? một bản chứng nhận gốc và hai hoặc hơn nửa số bản copy về xuất xứ hàng hoá là một hoạt động bình thường trong công việc của phòng công thương ( và không chỉ của Nga) , hoạt động này đã được quy định bằng các văn bản tiêu chuẩn của phòng công thương. Đồng thời, các bản chứng nhận gốc được xuất trình cho các cơ quan hải quan, còn bản copy xuất trình cho các cơ quan tài chính, thuế  mà họ tiến hành kiểm tra hoạt động ngoại thương của thành viên B' ? này. Trong trường hợp bản gốc bị mất, phòng công thương, sẽ cấp bản sao làm theo mẫu bản gốc và có số gốc của mình (Công văn của Uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 10/4/2000, số 07-14/9324).

Uỷ ban thuế quan quốc gia Nga làm rõ quy chế miễn nộp tiền thuế cho các loại hàng dùng để trưng bày ở triển lãm hội chợ, các buổi gặp gỡ quốc tế và các trường hợp tương tự khác. Tổ chức đảm bảo cho hoạt động này, hoặc người đại diện cho tổ chức, hoặc người nước ngoài thành viên của cuộc triển lãm tài trợ cho tổ chức đảm bảo cho hoạt động này có thể đứng ra với tư cách là người chuyển dịch các hàng hoá này. Một trong các điều kiện miễn hoàn toàn việc trả thuế nhập khẩu, thuế là các hàng hoá thuyên chuyển sẽ không được đưa vào các đại lý hoặc được sử dụng với mục đích khác như tặng thưởng hay nhằm mục đích thu nhập. Đồng thời huỷ bỏ điều kiện xuất trình ưu đãi hải quan có hiệu lực trước đây, điều kiện này là đi thăm các nơi có sử dụng các hàng hoá này phải là không mất tiền ( Công văn của uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 21/6/2000, số 01-06-16896).

Khi chứng thực hải quan cho các hàng hoá được đưa tạm thời vào lãnh thổ Liên bang Nga nhằm phục vụ cho các hoạt động nghề nghiệp cho phép các đại diện được uỷ nhiệm của các phương tiện thông tin đại chúng ở Liên bang Nga (nhà báo, và cộng tác viên nước ngoài của các báo) được miễn trả thuế nhập khẩu và thuế trong thời hạn được uỷ nhiệm với điều kiện mang hàng hoá ra khỏi lãnh thổ Nga sau khi hoàn thành việc uỷ nhiệm. ưu đãi đã quy định được áp dụng cho các hàng hoá sau: Thiết bị văn phòng, máy vi tính, kỹ thuật radiô và tivi, máy chụp ảnh, quay phim, video và nghe, ghi âm và các vật liệu cho các máy móc trên, các tài liệu thông tin có người mang theo khác nhau các vận dụng cho sinh hoạt, ô tô cá nhân ( mỗi đại diện của một phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài được mang một chiếc ).

Khi xác định giá trị thuế của các hàng hoá nhập không tính gộp vào giá chuyên chở hàng trong lãnh thổ Liên bang Nga cần được khẳng định bằng các tài liệu sau, cho phép chứng minh rõ một lần sự hợp pháp của việc tính và xác định giá trị của nó (1) hợp đồng vận chuyển bao gồm thông tin về người ký hiệp đồng, đối tượng hợp đồng, giá trị của nó và điều kiện thanh toán; (2) biên lai – hoá đơn của người thực hiện hợp đồng vận chuyển, bao gồm phương tiện các bên, tổng số và điều kiện thanh toán, cũng như hình thức thanh toán ( trong trường hợp giao cho thuế quan biên lai – hoá đơn thuyết minh bao gồm đối tượng hợp đồng và các điều kiện chủ yếu khác của hợp đồng thì nó có thể được coi là hợp đồng vận chuyển hàng hoá ); (3) các tài liệu trả tiền ngân hàng, khẳng định việc thanh toán dịch vụ chuyên chở phù hợp và biên lai hoá đơn đã trình.

 

IV. CHÍNH SÁCH THUẾ:

Từ ngày 1-7-2000 mở rộng danh mục các hàng thực phẩm, phải áp dụng mức thuế giá trị bổ sung ở mức 10%. Trong danh mục ổn định bao gồm : Thịt và các sản phẩm từ thịt ( trừ thức ăn sáng ); sữa và sản phẩm từ sữa, trứng và sản phẩm từ trứng, dầu thực vật, bơ thực vật; đường, bao gồm đường nguyên liệu , muối ngũ cốc, dầu đậu, và các sản phẩm chế biến của chúng: khoai tây và các sản phẩm bằng khoai tây, các loại quả dại, quả nhỏ, hồ đào ( Công văn của Uỷ ban thuế quốc gia Liên bang Nga từ 13/6/2000; số 01-06- 15880).

Danh mục hàng hoá bị chiụ thêm thuế gián tiếp khi nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga được bổ sung thêm mặt hàng dầu, bao gồm cả phần ngưng khi ổn định ( Chỉ thị của Uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga số 01-1000/4, MHCPCP số 5t 3/3/2000).

Những người đóng thuế gián tiếp trên lãnh thổ Liên bang Nga là những tổ chức thực hiện bán lần thứ nhất các hàng hoá chịu thuế gián tiếp phải trả cho hàng hoá chịu thuế gián tiếp có nguồn gốc và được nhập từ lãnh thổ Bieloxia được giảm bớt bằng tổng số thuế gián tiếp được trả cho cơ quan thuế nước này (Công văn MHCPCP từ 18/4/2000; số BT-6-03/296.

Thuế gián tiếp đối với xăng ô tô nhập vào lãnh thổ liên bang Nga với tính cách là sản phẩm gia công của dầu Nga Không bị đánh trong trường hợp nếu có chứng nhận xuất xứ hàng hoá dạng CT-1 khẳng định hàng hoá có xuất xứ từ nước cộng hoà Bieloxia. Trong trường hợp không có bằng chứng chứng nhận dầu được nhập từ nguồn gốc từ Bieloxuxia các cơ quan thuế quan cần thu thuế gián tiếp theo quy chế chung phù hợp với các điều khoản của pháp lệnh của Uỷ ban thuế quan quốc gia Nga và MHC từ 18/8/99; số 549/AP -3-06/270) về tính thêm thuế gián tiếp đối với xăng ô tô (công văn của uỷ ban thuế quốc gia Liên bang Nga từ 22/5/2000 số 06-11/1367).

Uỷ ban thế quốc gia liên bang Nga giải thích rằng sản phẩm chưa cần biến tĩnh đã qua đăng ký nhà nước và có chứa các chất bổ xung biến tính được ghi trong danh mục cần biến tính không bị đánh thuế gián tiếp. Trong trường hợp các sản phẩm có chưa cồn được nhập vào lãnh thổ Liên bang nga mà đối với các sản phẩm này có chứng nhận đăng ký của bộ kinh tế Nga và các sản phẩm này theo kết luận của phòng kiểm tra vệ sinh kiểm dịch quốc gia bộ y tế thuộc về các sản phẩm cần biến tính, nhưng không có các chất bổ xung biến tính có trong sản phẩm. (Công văn của Uỷ ban thuế quan quốc gia Nga từ 30/5/2000 số 01-06-14288).

Khi nhận thực hải quan thuốc lá để hút do các cơ quan trực tiếp sản xuất mặt hàng thuốc lá nhập để dùng nó làm nguyên liệu sản xuất thì được miễn trả thuế gián tiếp. Để xác nhận nhập loại thuốc lá đó các cơ quan trên cần xuất trình với cơ quan thuế quan các giấy tờ của cơ quan thực hiện việc nhập, mà trong đó xác định việc sản xuất sản phẩm thuốc lá là hoạt động chính của tổ quan.(Công văn của Uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 8/6/2000; số 01-06/15609).

Đơn giá đối với các ký hiệu phù hợp đối với nhãn mác của các thiết bị nghe nhìn và kỹ thuật vi tính được thông qua ở mức 1,54 rúp và đối với nhãn mác có thông tin tính toán ở mức 5,83 rúp/1 cái ( Lệnh của Bộ tài chính Liên bang Nga số 104, tiêu chuẩn quốc gia Liên bang Nga số 17 từ 25/1/2000).

 

V. ĐIỀU CHỈNH NGOẠI TỆ :

Nhằm chấn chỉnh việc điều hành hoạt động ngoại thương và tạo cho những người tham gia hoạt động này các điều kiện kinh tế bình đẳng khi thực hiện các hoat động xuất khẩu công nhân 46 sắc lệnh và lệnh của Tổng thống Liên bang Nga cho phép ưu đãi khi bán một phần nhất định ngoại tệ doanh thu xuất khẩu đã mất hiệu lực.

Từ năm 2000 việc các pháp nhân - ngoại kiều mua ngoại tệ ở thị trường ngoại tệ nội địa của liên bang Nga để thanh toán cho những người sở tại về các công việc, các dịch vụ hoặc cho các hoạt động trí tuệ với tổng số hơn 10000 đô la Mỹ được thực hiện với điều kiện xuất trình cho ngân hàng có trách nhiệm các kết luận của B' K- Cục liên bang Nga về kiểm tra xuất khẩu và ngoại tệ về việc chứng minh rõ ràng việc trả bằng ngoại tệ cho các công việc, các dịch vụ và kết quả làm việc trí tuệ. Việc tiếp nhận kết luận trên tiến hành theo trình tự đơn giản trong các trường hợp sau (1) Việc trả tiền được thực hiện nhờ các khoản tiền trong ngân sách, (2) nhà nước hoặc người của Liên bang Nga là người sáng lập của người viết đơn (3) người viết đơn có đơn yêu cầu người của Liên bang Nga tại địa bàn cư trú của mình đưa kết luận, (4) có giấy phép đặc biệt của ngân hàng Nga để thực hiện việc trả tiền hoặc do ngân hàng Nga đăng ký những khoản tiền này , (5) thực hiện thanh toán được thực hiện ở dạng tín phiếu không hoàn lại , (6) người sở tại thực thi trách nhiệm của hợp đồng đảm bảo bằng một trong các cách sau :Có đảm bảo của ngân hàng-của người sở tại, có kết luận giữa người viết đơn và tổ chiức bảo hiểm – người ngoại kiều của hợp đồng bảo đảm cho các rủi ro không trả tiền do người sở tại không thi hành các trách nhiệm của mình, đồng thời do hoạt động của các cơ quan nhà nước của nước có đương sự ký kết ; có kỳ phiếu do ngân hàng sở tại phát hành , có thế chấp của cải của người sở tại .

Việc chứng thực hải quan cho các hàng hoá được xuất khẩu từ Nga sang Cadăcxtan và Kirgidi, mà cách thanh toán các hàng hoá này được thực hiện theo tiền trong nước (theo đồng rúp ), sẽ được tiến hành mà không cần xuất trình bản thuyết minh hợp đồng. Khi tiến hành thanh toán bằng ngoai tệ ( hoàn toàn hoặc một phần ) thì xuất trình bản thuyết minh hợp đồng. Khi tiến hành thanh toán bằng ngoại tệ ( hoàn toàn hoặc một phần ) thì xuất trình bản thuuyết minh hợp đồng khi tiến hành chứng thực hải quan.

Một loạt các điều giải thích được đưa vào quy chế mang ra khỏi Nga ngoại tệ bằng tiền mặt. Những người ngoại quốc có trách nhiệm xuất trình trước các cơ quan hải quan các giấy tờ khẳng định việc di chuyển hoặc nhập ngoại tệ vào liên bang Nga, rút ngoại tệ ở khoản tiền gửi bằng ngoại tệ hiện thời trong ngân hàng được uỷ quyền, hoặc mua ngoại tệ tại ngân hàng được uỷ quyền ở Liên bang Nga, chuyển sang tổng số ngoại tệ bằng tiền mặt được coi là sự khác biệt giữa tổng số ngoại tệ bằng tiền mặt được mang đi và 1500 đô la Mỹ. Các kiều dân có quyền mang ra khỏi nước sở tại ngoại tệ bằng tiền mặt mà họ thu được để thanh toán các chi phí công tác ở ngoại biên giới liên bang Nga, không phụ thuộc vào tổng số tiền không có phép của ngân hàng Nga với tổng số không vượt quá số tương đương là 10000 đô la Mỹ. (công văn của uỷ ban thuế quan liên bang Nga từ 22/5/2000 số 13/15/13704).

Trong các trường hợp số ngoại tệ bằng tiền mặt mà các kiều dân mang ra khỏi Liên bang Nga không vượt qúa tổng số tiền tương đương 1500 đô la Mỹ áp dụng quy chế giảm nhẹ sự cho phép đối với nó, không đòi hỏi khi chứng nhận hải quan phải xuất trình các thông tin về giấy tờ chứng thực việc mang vào hoặc chuyển ngoại tệ vào Liên bang Nga . (lệnh của Uỷ ban thuế quan quốc gia Liên bang Nga từ 2/3/2000, số 01-99/300).

  • Tags: