Mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa - Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số vấn đề cần lưu ý

Bài báo nghiên cứu "Mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa - Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số vấn đề cần lưu ý " Nguyễn Đức Thuận (Giám đốc điều hành Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vĩnh Phát) thực hiện.

Tóm tắt:

Giao dịch mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) diễn ra khá phổ biến trên thị trường nhưng chưa nhận được sự quan tâm, nghiên cứu về mặt pháp lý cũng như thực tiễn xét xử dẫn đến mục đích của giao dịch có thể không đạt được, giá trị của giao dịch có thể không được công nhận. Xuất phát từ thực trạng nêu trên, trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về mua bán DNNVV, tác giả rút ra khái niệm mua bán DNNVV, đồng thời phân tích 2 bản án của Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh để rút ra một số kết luận, lưu ý trong quá trình mua bán DNNVV được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích mà các bên hướng tới.

Từ khóa: doanh nghiệp nhỏ và vừa, mua bán doanh nghiệp, giải quyết tranh chấp, TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, DNNVV có vai trò quan trọng, là chủ thể có số lượng đông đảo, tạo ra nhiều giá trị cho nền kinh tế, tuy nhiên, việc mua bán, thay đổi chủ sở hữu của DNNVV hiện chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các chủ thể trong xã hội dẫn đến những giao dịch mua bán DNNVV không đạt được mục đích của các bên. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cũng như nghiên cứu các tranh chấp đã được giải quyết, tác giả thực hiện phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về mua bán DNNVV và rút ra một số lưu ý để giao dịch mua bán DNNVV được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích của các bên.

2. Một số vấn đề lý luận về mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ở góc độ pháp lý, doanh nghiệp nói chung là chủ thể do một hoặc một số cá nhân, tổ chức thành lập để thực hiện những mục đích nhất định. Tùy thuộc vào mục đích, nguồn lực mà các cá nhân, tổ chức sẽ thành lập nên những doanh nghiệp có quy mô khác nhau, đó có thể là các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và các doanh nghiệp lớn, các công ty đại chúng.

Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới, quy mô doanh nghiệp sẽ được xác định theo số lượng lao động và nguồn vốn, theo đó, doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người là siêu nhỏ, có số lượng lao động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ đồng trở xuống là doanh nghiệp nhỏ, còn có từ 200 đến 300 lao động, nguồn vốn 20 đến 100 tỷ đồng là doanh nghiệp vừa.

Ở Việt Nam, DNNVV là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Do vậy, DNNVV mang những đặc điểm của doanh nghiệp nói chung như: là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Đồng thời, DNNVV được xác định theo các tiêu chí tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, gồm: (1) DNNVV bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng 01 trong 02 tiêu chí sau: (i) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; hoặc (ii) tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng; (2) Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác định theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ. (Xem Bảng)

Bảng. Phân loại doanh nghiệp

mua ban doanh nghiệp

Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán DNNVV nói riêng chủ yếu là quan hệ xã hội phát sinh giữa bên bán doanh nghiệp và bên mua doanh nghiệp. Để bảo đảm quyền lợi cho các bên trong quan hệ xã hội này, tạo sự ổn định, phát triển cho thị trường, kinh tế, đòi hỏi pháp luật cần có các quy định cần thiết để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trong quá trình mua bán DNNNV.

Để có thể tiến hành mua bán DNNVV, các bên cần thực hiện các công việc, thủ tục khác nhau để có thể hoàn tất giao dịch một cách thuận lợi, phù hợp với ý chí, mục tiêu của các bên. Về phía bên bán DNNVV, để có thể bán doanh nghiệp do mình sở hữu cho chủ thể khác, trước hết, bên bán DNNVV cần thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo đó, bên bán DNNVV cần hoàn tất các thủ tục thành lập, góp vốn, đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế… để doanh nghiệp có thể vận hành. Để tạo ra giá trị, lợi nhuận cho DNNVV, bên bán DNNVV cần tổ chức, quản trị doanh nghiệp một cách khoa học và hiệu quả. Bên cạnh việc tuyển dụng những nhân sự phù hợp, bên bán DNNVV còn phải đầu tư các tài sản cố định, trang thiết bị để DNNVV hoạt động tạo ra lợi nhuận hoặc tiềm năng có lợi nhuận, ngày một nâng cao giá trị của DNNVV.

Khi muốn bán DNNVV, bên bán DNNVV cũng cần thực hiện các công việc cần thiết để hoàn tất thương vụ mua bán. Bên bán cần rà soát lại toàn bộ DNNVV để xác định giá trị mong muốn, các quyền, nghĩa vụ phát sinh khi bán DNNVV, làm cơ sở để đàm phán với bên mua DNNVV; đồng thời, bên bán DNNVV cũng có trách nhiệm cung cấp các thông tin trong phạm vi cần thiết cho bên mua DNNVV để bên mua DNNVV tiếp cận, thẩm định và đàm phán việc mua bán DNNVV. Khi đã đạt được sự thống nhất, bên bán DNNVV sẽ ký hợp đồng mua bán doanh nghiệp và các văn kiện liên quan đến chuyển giao DNNVV cho bên bán, nhận tiền và hoàn thành việc mua bán DNNVV. 

Về phía bên mua DNNVV: cũng như bên bán DNNVV, khi muốn mua DNNVV, bên mua DNNVV cũng cần thực hiện nhiều hành động khác nhau. Trước hết, bên mua DNNVV sẽ xác định doanh nghiệp mục tiêu, phù hợp với định hướng mua lại của mình và thực hiện thu thập, tiếp cận các thông tin ban đầu về DNNVV cần mua lại. Khi nhận thấy DNNVV cần mua lại phù hợp với định hướng phát triển, bên mua DNNVV sẽ có những trao đổi sơ bộ với bên bán DNNVV để tiếp cận các thông tin sâu hơn về DNNVV và đề nghị bên bán DNNVV cung cấp các thông tin, tài liệu phục vụ việc thẩm định, đánh giá DNNVV. Sau khi nhận được các thông tin, hồ sơ về DNNVV, bên mua DNNVV sẽ thẩm định tài sản và pháp lý của DNNVV để quyết định mua DNNVV, cũng như đưa ra giá mua hợp lý để các bên có thể thống nhất giá, quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch. Cuối cùng, khi bên mua DNNVV đàm phán thành công việc mua lại DNNVV với bên bán DNNVV thì các bên sẽ tiến tới ký kết hợp đồng mua bán DNNVV, bên mua DNNVV sẽ thực hiện thanh toán, tiếp nhận doanh nghiệp được mua lại và hoàn tất các thủ tục cần thiết tại cơ quan quản lý về đăng ký kinh doanh để chính thức trở thành chủ sở hữu mới của DNNVV.                 

Từ những phân tích nêu trên, có thể xác định: Mua bán DNNVV là quá trình mua bán doanh nghiệp, trong đó, bên bán và bên mua doanh nghiệp tiếp cận thông tin về doanh nghiệp, trao đổi thông tin, đánh giá, thẩm định, đàm phán để thực hiện và hoàn tất thỏa thuận về chuyển giao quyền sở hữu DNNVV.

3. Thực trạng giải quyết tranh chấp tại TP. Hồ Chí Minh về mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế TP. Hồ Chí Minh, hoạt động mua bán DNNVV cũng diễn ra sôi động, song song với đó là tranh chấp liên quan đến việc mua bán DNNVV cũng diễn ra phức tạp. Trên cơ sở nghiên cứu 2 bản án của Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, tác giả phân tích, làm rõ một số nội dung pháp lý liên quan đến hoạt động mua bán DNNVV.

3.1. Vấn đề xác định đối tượng mua bán trong giao dịch mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa

DNNVV có thể được xem là một “hàng hóa đặc biệt” được các chủ thể thực hiện hoạt động mua bán và hình thức của hoạt động này được thể hiện qua việc các bên chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần chi phối cổ phần, phần vốn góp cho nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, các bên có thể xác định chưa chính xác đối tượng mua bán dẫn đến tranh chấp và hiệu lực của giao dịch mua bán DNNVV không được bảo đảm, vấn đề này được thể hiện khá rõ trong Bản án số: 02/2024/KDTM-PT ngày 5/01/2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán công ty” của Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:

Theo nhận định của Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh: Ngày 20/3/2017, bà Hoàng Thị Mỹ P và ông Quách Trương Minh N, bà Nguyễn Thị Vân A lập hợp đồng mua bán doanh nghiệp với đối tượng mua bán là: Công ty Thành phố M; Dự án đang thực hiện: Dự án khu nhà ở T tại địa chỉ A T, phường T, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh với diện tích là 15.114,8 m2. Sau khi lập hợp đồng, bà P đã đặt cọc số tiền 4.500.000.000 đồng. Do phát hiện việc đền bù, giải tỏa chưa được Công ty T mới thực hiện xong, nên bà P khởi kiện yêu cầu: (i) Tuyên bố Hợp đồng mua bán doanh nghiệp là Công ty Trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên ngày 20/3/2017 được xác lập giữa ông N và bà Vân A với bà P bị vô hiệu; (ii) Buộc ông N hoàn trả lại cho bà P tiền cọc 3.500.000.000 đồng; (iii) Buộc bà A và ông N liên đới hoàn trả lại cho bà P tiền cọc 1.000.000.000 đồng.

Theo nội dung vụ án, có thể xác định các bên đã xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp với bên bán là ông Quách Trương Minh N, bà Nguyễn Thị Vân A; Bên mua: Bà Hoàng Thị Mỹ P; Đối tượng mua bán là: (i) Công ty TNHH Thành phố M, (ii) Dự án khu nhà ở T. Như vậy, có thể xác định bản chất của giao dịch là việc ông N, bà A chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu công ty, cùng với Dự bán khu nhà ở T cho bà P. Tuy nhiên, các bên không lập Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp trong Công ty TNHH Thành phố M, xác định Dự án khu nhà ở T là tài sản của Công ty TNHH Thành phố M được chuyển giao khi thực hiện việc chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp là không phù hợp với pháp luật về doanh nghiệp. Như đã đề cập, bản chất của mua bán DNNVV là việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần chi phối phần vốn góp, chủ sở hữu chỉ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình chứ không thể chuyển nhượng công ty cho chủ thể khác. Đồng thời, các bên cần xác định được khi chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp trong công ty thì toàn bộ tài sản của công ty cũng sẽ được chuyển giao cho chủ sở hữu mới, các bên không cần thiết và cũng không được phép thỏa thuận việc chuyển nhượng Dự án là tài sản của công ty. Nội dung này cũng đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định trong bản án và được Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh chấp nhận, cụ thể trong bản án có đoạn: Căn cứ quy định của Luật Doanh nghiệp thì các thành viên góp vốn của Công ty chỉ được quyền chuyển nhượng vốn góp vào Công ty. Ông N và bà Vân A với tư cách là thành viên góp vốn của Công ty thì ông N và bà Vân A không có thẩm quyền để ký thỏa thuận bán Công ty cùng dự án mà Công ty được giao. Mặt khác, theo Điều 49 quy định của Luật kinh doanh bất động sản thì chủ đầu tư nhận chuyển nhượng dự án bất động sản phải là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Vậy, tại thời điểm ký hợp đồng mua bán công ty thì bên nhận chuyển nhượng Công ty để thực hiện dự án là cá nhân bà P là vi phạm điều cấm pháp luật. Do đó, Hợp đồng mua bán doanh nghiệp lập ngày 20/3/2017 giữa ông N và bà Vân A với bà P là vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015”.

Theo tác giả, quan điểm của Tòa án Sơ thẩm và Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh trong vụ án này là hoàn toàn phù hợp và thuyết phục, bởi lẽ, thực tế các bên có thể xác định, thỏa thuận việc chuyển nhượng công ty, dự án của công ty cho nhau, tuy nhiên, khi thực hiện cần tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về doanh nghiệp cũng như các quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản. Trường hợp các bên không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về doanh nghiệp, bất động sản thì giao dịch của các bên có thể bị toà án tuyên bố vô hiệu và các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, không thể thực hiện mục đích kinh doanh đã đặt ra khi mua bán DNNVV.

3.2. Nghĩa vụ của bên bán và giải pháp bảo về quyền lợi của bên mua trong giao dịch mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Như đã phân tích tại Mục 1: “Mua bán DNNVV là quá trình mua bán doanh nghiệp, trong đó, bên bán và bên mua doanh nghiệp DNNVV tiếp cận thông tin về doanh nghiệp, trao đổi thông tin, đánh giá, thẩm định, đàm phán để thực hiện và hoàn tất thỏa thuận về chuyển giao quyền sở hữu DNNVV”. Theo đó, trong giao dịch mua bán DNNVV, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua và bên mua có quyền đánh giá, đàm phán và yêu cầu bên bán thực hiện một số công việc để tiến tới thực hiện và hoàn tất thỏa thuận về việc chuyển giao quyền sở hữu DNNVV. Câu hỏi quan trọng được đặt ra trong hoạt động này là liệu bên mua DNNVV có quyền yêu cầu bên bán DNNVV thực hiện một/một số các hành động trước khi các bên thực hiện việc mua bán DNNVV hay không và làm thế nào để ràng buộc trách nhiệm của bên bán DNNVV, từ đó bảo vệ quyền lợi cho bên mua DNNVV. Để giải đáp được câu hỏi này, tác giả nghiên cứu Bản án số 77/2023/KDTM-PT ngày 14/7/2023 về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng cổ phần” của Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:

Theo nội dung vụ án: Năm 2018, 2 thành viên của Công ty TNHH M quyết định chuyển nhượng 100% vốn góp cho ông Phạm Đoàn K (tỷ lệ 75%) và bà Mạc Thu H (tỷ lệ 25%); ông K và bà H sẽ là chủ sở hữu, đồng thời là người tiếp quản toàn bộ công ty và Khu đất 1051. Trên cơ sở này, ngày 20/8/2018, Công ty TNHH M được cấp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp thể hiện ông K, bà H chính thức trở thành thành viên của Công ty. Đến ngày 7/5/2019, Công ty TNHH M tiếp tục được cấp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ công ty TNHH thành công ty cổ phần, trong đó, xác định cổ đông sáng lập gồm: ông K sở hữu 65% cổ phần, bà H sở hữu 25% cổ phần và ông Phạm Đoàn K1 sở hữu 10% cổ phần. Tuy nhiên, Công ty M lại không thực hiện thủ tục chuyển đổi, cập nhật lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối Khu đất 1051 tương ứng với 2 lần thay đổi giấy phép. Thông qua mối quan hệ của mình, ông K được biết Công ty Cổ phần Thép N (sau đây gọi tắt là Công ty N) đang có nhu cầu tìm một khu đất tại địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh B để phục vụ hoạt động sản xuất, mở rộng kinh doanh của công ty, trong khi ông K đang có Khu đất 1051 cần chuyển nhượng. Do đó, 2 bên thương lượng và đồng ý giá cả chuyển nhượng Khu đất 1051 là 5.108.940 USD. Nhằm thuận tiện cho việc tiếp nhận khu đất, 2 bên thống nhất chuyển nhượng Khu đất 1051 cho Công ty N bằng hình thức mua bán toàn bộ cổ phần tại Công ty M. Sau khi nhận chuyển nhượng toàn bộ cổ phần tại Công ty M thì Công ty N vừa trở thành chủ sở hữu của Công ty M vừa là chủ sử dụng của Khu đất 1051. Đến ngày 9/9/2020, Công ty N và ông K (đại diện cho các cổ đông Công ty M) ký kết “Thỏa thuận đặt cọc”, trong đó xác định mục đích của giao dịch là: “Thỏa thuận này nhằm ghi nhận lại sự việc liên quan đến quá trình đàm phán hợp đồng chuyển nhượng có thể có trong tương lai cũng như việc đặt cọc cho việc chuyển nhượng 100% phần vốn góp được sở hữu hợp pháp bởi bên bán. Theo đó sau khi hoàn tất giao dịch dự kiến bên mua sẽ trở thành chủ sở hữu duy nhất Công ty CP M và Khu đất trên”. Nội dung chính của Thỏa thuận đặt cọc nêu trên bao gồm: Giao dịch dự kiến: toàn bộ vốn góp cùng với quyền và nghĩa vụ liên quan trong Công ty M, bao gồm quyền sở hữu Khu đất 1051; Giá chuyển nhượng: sẽ được xác định bằng USD là 5.108.940 USD, Công ty N thanh toán khoản đặt cọc là 500.000 USD. Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về điều kiện ký Hợp đồng chuyển nhượng, thời hạn và chấm dứt Thỏa thuận, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Thực hiện theo đúng nội dung của Thỏa thuận đặt cọc, ngày 14/9/2020, Công ty N chuyển số tiền 11.590.000.000 đồng tương đương 500.000 USD cho người thụ hưởng là ông K. Theo Thỏa thuận đặt cọc, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký kết (từ ngày 9/9/2020 đến ngày 19/9/2020), bên ông K phải có nghĩa vụ thực hiện đủ các thủ tục cũng như nghĩa vụ để 2 bên tiến đến ký hợp đồng chuyển nhượng. Thế nhưng, bên ông K lại không thực hiện đầy đủ các thủ tục và nghĩa vụ, cụ thể: Chưa bổ sung các ngành nghề kinh doanh của Công ty N vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty M; Chưa bổ sung mục tiêu trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Chưa hoàn tất các nghĩa vụ pháp lý đối với Khu đất 1051; Không cung cấp đầy đủ tài liệu, hồ sơ cần thiết để Công ty N thẩm tra pháp lý về tình trạng thương mại, thuế, kế toán và Khu đất 1051. Công ty N nhiều lần trao đổi với bên ông K đề nghị khắc phục nhưng bên ông K vẫn không thực hiện. Do đó, Công ty N yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên Thỏa thuận đặt cọc đề ngày 9/9/2020 ký giữa bên bán: đại diện là ông Phạm Đoàn K và bên mua: Công ty Cổ phần Thép N đã chấm dứt từ ngày 10/10/2020; Buộc ông Phạm Đoàn K, bà Mạc Thu H và ông Phạm Đoàn K1 liên đới chịu trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần Thép N một lần số tiền gốc: 11.590.000.000 đồng; Buộc ông Phạm Đoàn K, bà Mạc Thu H và ông Phạm Đoàn K1 liên đới bồi thường thiệt hại cho Công ty Cổ phần Thép N số tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc tính từ khi Thỏa thuận đặt cọc chấm dứt cho đến khi Công ty Cổ phần Thép N nhận lại đủ, với mức lãi suất theo quy định của pháp luật (10%/năm).

Theo nội dung vụ án có thể thấy trước khi chính thức xác lập giao dịch mua bán công ty thông qua việc chuyển nhượng 100% cổ phần của Công ty M, bên bán và bên mua đã xác lập Thỏa thuận đặt cọc để đảm bảo giao kết Hợp đồng và xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trước khi ký Hợp đồng chuyển nhượng. Trong quá trình thực hiện, bên bán đã không thực hiện đúng các cam kết, thỏa thuận trong Thỏa thuận đặt cọc, do đó, bên mua đã yêu cầu tòa án ra phán quyết chấm dứt hiệu lực của Thỏa thuận đặt cọc, nhận lại số tiền lãi đã thanh toán và lãi suất tương ứng. Căn cứ vào các chứng cứ và diễn biến tại phiên tòa, Toà án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty N, cụ thể: 1.1. Xác định Thỏa thuận đặt cọc ngày 9/9/2020 giữa Công ty Cổ phần Thép N và các ông bà Phạm Đoàn K, Mạc Thu H, Phạm Đoàn K1 chấm dứt vào ngày 25/3/2021; 1.2. Buộc các ông bà Phạm Đoàn K, Mạc Thu H, Phạm Đoàn K1 có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty cổ phần Thép N số tiền 13.513.940.000 đồng, trong đó bao gồm số tiền đặt cọc đã nhận 11.590.000.000 đồng và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền từ tháng 4/2021 đến tháng 11/2022 là 1.923.940.000 đồng.

Từ thực tiễn xét xử nêu trên có thể thấy, trước khi xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán doanh nghiệp thông qua việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, bên mua DNNVV có thể yêu cầu bên bán cung cấp thông tin và thực hiện một số công việc cần thiết để bên mua đồng ý xác lập hợp đồng mua bán; nếu bên bán không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ thì bên mua có thể không thực hiện giao kết hợp đồng mua bán DNNVV. Đồng thời, để đảm bảo trách nhiệm của bên bán cũng như đảm bảo quyền lợi của mình, bên mua DNNVV có thể yêu cầu bên bán DNNVV xác lập, thực hiện hợp đồng/thoả thuận đặt cọc; khi bên bán không thực hiện đúng cam kết thì bên mua có căn cứ để yêu cầu Tòa án buộc bên bán hoàn trả lại số tiền đã nhận, cũng như số tiền lãi tương ứng.

Theo tác giả, giải pháp, phương án nêu trên là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ để tiếp nhận DNNVV khi mua DNNVV, bên mua cần biết đầy đủ các thông tin do bên bán cung cấp, đồng thời, bên bán cũng cần thực hiện một số công việc để bên mua có cơ sở thực hiện hợp đồng mua bán DNNVV như thay đổi ngành nghề kinh doanh, hoàn tất pháp lý tài sản của DNNVV… Việc thực hiện các yêu cầu nêu trên là hoàn toàn cần thiết và hợp lý để bên mua có thể có cơ sở vững chắc tiến đến thực hiện việc mua DNNVV, đồng thời, một thoả thuận đặt cọc để đảm bảo bên bán thực hiện đúng các cam kết, thỏa thuận là cần thiết và là căn cứ để yêu cầu cơ quan tài phán buộc các bên thực hiện đúng cam kết, thỏa thuận của mình, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm.

4. Một số vấn đề cần lưu ý khi mua bán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Từ những phân tích cũng như kết quả giải quyết tranh chấp về mua bán DNNVV tại TP. Hồ Chí Minh như nêu trên, theo tác giả, để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, khi thực hiện mua bán DNNVV, các bên cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, các bên cần xác định đúng đối tượng mua bán trong giao dịch mua bán DNNVV. Khi thực hiện giao dịch, Bên bán và bên mua DNNVV có thể chỉ hướng đến việc chuyển giao quyền sở hữu của DNNVV như các bất động sản, dự án bất động sản mà bên bán DNNVV đang thực hiện, tuy nhiên, khi thực hiện mục đích này, các bên cần thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật, cụ thể là cần xác định tài sản được chuyển giao là cổ phần, phần vốn góp của DNNVV, việc chuyển giao quyền sở hữu cổ phần, phần vốn góp sẽ gián tiếp chuyển giao quyền sở hữu tài sản của DNNVV từ bên bán sang bên mua. Trường hợp có sự nhầm lẫn và/hoặc không thực hiện đúng giao dịch chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp thì giao dịch giữa các bên có thể bị vô hiệu dẫn đến mục đích của giao dịch không đạt được.

Thứ hai, trước khi thực hiện giao dịch mua bán DNNVV, bên mua cần thẩm định kỹ lưỡng pháp lý doanh nghiệp, tài sản của DNNVV, trường hợp pháp lý chưa được hoàn thiện, bên mua DNNVV cần yêu cầu bên bán hoàn tất các thủ tục pháp lý để hoàn thiện hồ sơ, đủ điều kiện để các bên thực hiện giao dịch mua bán DNNVV. Trong trường hợp Bên bán không thực hiện, thực hiện không đầy đủ các thủ tục cần thiết mà bên mua đưa ra, bên mua hoàn toàn có quyền từ chối thực hiện giao dịch và mục đích của giao dịch mua bán DNNVV cũng không thể đạt được.

Thứ ba, để đảm bảo quyền và lợi ích khi thực hiện giao dịch mua bán DNNVV, các bên nên thiết lập một thỏa thuận/hợp đồng đặt cọc, theo đó bên mua sẽ thanh toán trước một khoản tiền để đảm bảo thực hiện hợp đồng, bên bán nhận tiền đặt cọc và thực hiện các yêu cầu, nghĩa vụ mà bên mua đặt ra để hoàn tất các thủ tục tiến tới việc các bên xác lập hợp đồng mua bán DNNVV thông qua việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp. Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, thực hiện giao dịch mua bán DNNVV, bên mua bị mất khoản tiền đã đặt cọc; ngược lại, trường hợp bên bán không thực hiện, thực hiện không đúng thoả thuận mua bán thì ngoài việc phải hoàn trả lại khoản tiền đặt cọc, bên bán còn bị phạt cọc theo thoả thuận/hợp đồng đặt cọc đã ký. Việc các bên xác lập thoả thuận/hợp đồng đặt cọc là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo giao dịch mua bán DNNVV được thực hiện cũng như đảm bảo các bên sẽ thực hiện đúng, đầy đủ các cam kết, nghĩa vụ với nhau./.

Tài liệu tham khảo:

Nguyễn Đình Ngãi (2021). Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đại dịch Covid-19: Hỗ trợ của Nhà nước và cơ chế thực thi. Truy cập tại https://lsvn.vn/doanh-nghiep-vua-va-nho-trong-dai-dich-covid-19-ho-tro-cua-nha-nuoc-va-co-che-thuc-thi1627493066-a106769.html

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2020). Luật Doanh nghiệp 2020.

Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh (2024). Bản án số: 02/2024/KDTM-PT, ngày 05/01/2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán công ty”. Truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-hop-dong-mua-ban-cong-ty-so-022024kdtmpt-311730

Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh (2023). Bản án số 77/2023/KDTM-PT, ngày 14/7/2023 về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng cổ phần”. Truy cập tại https://www.google.com/url?sa=t&source=web&rct=j&opi=89978449&url=https://congbobanan.toaan.gov.vn/5ta1248880t1cvn/Cong_ty_co_phan_Thep_N_kien_Pham_Doan_K.pdf&ved=2ahUKEwi9xeC8rMSIAxXXglYBHX2WEewQFnoECBMQAQ&usg=AOvVaw2NBteYhGwW4_349tuEbKUp

 

Buying and selling small and medium-sized enterprises: Dispute resolution practices in  Ho Chi Minh City and key legal considerations

Nguyen Duc Thuan

CEO, Vinh Phat Investment and Trading Joint Stock Company

Abstract:

Transactions involving the purchase and sale of small and medium-sized enterprises (SMEs) are increasingly common in the market; however, they have not received adequate legal attention, academic research, or judicial scrutiny. This lack of focus often results in unmet transactional objectives and unrecognized transaction values. In response to this gap, the study explores the legal framework governing SME transactions and proposes a clearer definition of such transactions. Through the analysis of two judgments issued by the High People’s Court in Ho Chi Minh City, the study identifies key legal considerations and practical implications. Based on these findings, the study offers recommendations to enhance the effectiveness and legal certainty of SME purchase and sale transactions, ensuring alignment with the parties' intended goals.

Keywords: small and medium-sized enterprises, buying and selling businesses, dispute resolution, Ho Chi Minh City.

Tạp chí Công Thương