Mực nước hồ thủy điện ngày 4/10: Tăng huy động thủy điện tại cả 3 miền

Theo báo cáo của EVN, do vào đầu tháng 9/2023 lưu lượng nước về các hồ tốt trên cả 3 miền nên thủy điện được khai thác tăng, đặc biệt là các hồ thủy điện đa mục tiêu. Tính chung 9 tháng, sản lượng thủy điện đạt 58,05 tỷ kWh, chiếm 27,7% toàn hệ thống.
9 tháng, sản lượng thủy điện cả nước đạt 58,05 tỷ kWh, chiếm 27,7% toàn hệ thống
9 tháng, sản lượng thủy điện cả nước đạt 58,05 tỷ kWh, chiếm 27,7% toàn hệ thống

Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) về mực nước các hồ thủy điện trên cả nước, lưu lượng nước về các hồ chứa khu vực Bắc Bộ ngày 4/10/2023 thấp, giảm so với ngày 3/10; khu vực Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ nhiều, giảm nhẹ; khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ thấp, tăng nhẹ so với hôm trước.

Mực nước hồ chứa thủy điện khu vực Bắc Bộ cao, dao động nhẹ; khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên cao, tăng nhẹ; khu vực Bắc Trung Bộ cao, giảm nhẹ; khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ thấp, giảm nhẹ so với ngày hôm trước. Các hồ chứa ở lưu vực sông, suối nhỏ khu vực Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Đồng Nai, Bình Phước) mực nước cao, đang tăng cường phát điện, sử dụng nước hiệu quả tránh xả thừa.

Các hồ thủy điện lớn khu vực Bắc Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ đang phát điện theo quy trình vận hành và huy động phát điện của cơ quan điều hành; trong đó hồ Thác Bà đang vận hành theo huy động phát điện để nâng cao mực nước hồ. Khu vực Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên mực nước cao; một số hồ đã điều tiết nước xả tràn như Trị An, Ialy, Pleikrông, Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Bản Vẽ, Hủa Na, Sông Ba Hạ; các hồ lớn còn lại mực nước đều dưới mực nước theo quy định, chủ động vận hành phát điện để sử dụng hiệu quả nguồn nước.

Dự báo tình hình thủy văn 24h tới, lưu lượng nước về các hồ khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ giảm chậm; khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ tăng nhẹ; khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ dao động nhẹ.

Hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ

Các hồ thủy điện tại khu vực Bắc Bộ lưu lượng về hồ giảm nhẹ so với ngày 3/10: Hồ Lai Châu: 927 m3/s; Hồ Sơn La: 1.111 m3/s; Hồ Hòa Bình: 430 m3/s; Hồ Thác Bà: 175 m3/s; Hồ Tuyên Quang: 325 m3/s; Hồ Bản Chát: 60 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 4/10 (m) Mực nước chết Mực nước hồ ngày 4/10 so với ngày 3/10 (m) Mực nước hồ ngày 4/10 so với mực nước chết (m) Mực nước dâng bình thường / Mực nước trước lũ (m)
Hồ Lai Châu 291,55 265 -0,73 +26,55 Mực nước dâng bình thường: 295 m
Hồ Sơn La 211,94 175 +0,62 +36,94 Mực nước dâng bình thường: 215 m
Hồ Hòa Bình 115,18 80 -0,19 +35,18 Mực nước tối thiểu: 112,9 m
Hồ Thác Bà 55,26 46 +0,04 +9,26 Mực nước tối thiểu: 55 m
Hồ Tuyên Quang 116,87 90 +0,09 +26,87 Mực nước tối thiểu: 109,6 m
Hồ Bản Chát 473,35 431 -0,16 +42,35 Mực nước dâng bình thường: 475 m

Tại cuộc họp giao ban về tiến độ thi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng, tại tỉnh Hòa Bình ngày 2/10, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Phạm Hồng Phương đã chỉ đạo các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thi công Nhà máy.

Theo báo cáo của Ban Quản lý dự án Điện 1 - đơn vị được EVN giao đại diện Chủ đầu tư quản lý điều hành dự án, khối lượng thi công một số hạng mục trong quý 3 đạt được như: Đào nhà máy đạt 99% kế hoạch; khoan neo gia cố mái hố móng cửa lấy nước đạt 157% kế hoạch; đào và gia cố tạm vòm hầm đạt gần 90% kế hoạch…

Một số hạng mục thi công gặp khó khăn do địa chất rất phức tạp. Bên cạnh đó, trong quý 3, tình hình thời tiết không thuận lợi do mưa nhiều; một số nhà thầu còn thiếu nhân lực, thiết bị trong công tác khoan gia cố và đổ bê tông gia cố mái hố móng.

Dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng được phát lệnh khởi công vào tháng 1/2021 với quy mô công suất lắp 2 tổ máy x 240MW. Tiến độ dự kiến phát điện tổ máy 1 vào tháng 6/2025; tổ máy 2 vào tháng 7/2025.

Hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Bắc Trung Bộ lưu lượng về hồ nhiều, giảm chậm so với ngày 3/10: Hồ Trung Sơn: 272 m3/s; Hồ Bản Vẽ: 368 m3/s (xả tràn 278 m3/s); Hồ Hủa Na: 268 m3/s (xả tràn 60 m3/s); Hồ Bình Điền: 16 m3/s; Hồ Hương Điền: 79 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 4/10 (m) Mực nước chết Mực nước hồ ngày 4/10 so với ngày 3/10 (m) Mực nước hồ ngày 4/10 so với mực nước chết (m) Mực nước dâng bình thường / Mực nước trước lũ (m)
Hồ Trung Sơn 154,84 150 +0,4 +4,84 Mực nước trước lũ: 157 m
Hồ Bản Vẽ 198,4 155 -0,32 +43,4 Mực nước trước lũ: 195 - 200 m
Hồ Hủa Na 234,95 215 -0,03 +19,95 Mực nước trước lũ: 235 m
Hồ Bình Điền 60,12 53 -0,16 +7,12 Mực nước trước lũ: 80,6 m
Hồ Hương Điền 48,99 46 -0,16 +2,99 Mực nước trước lũ: 56 m

Hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Đông Nam Bộ lưu lượng về hồ nhiều, giảm nhẹ so với ngày 3/10: Hồ Thác Mơ: 382 m3/s; Hồ Trị An: 1.290 m3/s (xả tràn 330 m3/s).

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 4/10 (m) Mực nước chết Mực nước hồ ngày 4/10 so với ngày 3/10 (m) Mực nước hồ ngày 4/10 so với mực nước chết (m) Mực nước dâng bình thường / Mực nước trước lũ (m)
Hồ Thác Mơ 216,95 198 +0,23 +18,95  Mực nước trước lũ: 216 - 218 m
Hồ Trị An 61,55 50 +0,03 +11,55  Mực nước trước lũ: 60,8 - 62,0 m

Hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ

Các hồ thủy điện khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ lưu lượng về hồ tăng nhẹ so với ngày 3/10: Hồ A Vương: 51 m3/s; Hồ Đăkđrink: 40 m3/s; Hồ Sông Bung 4: 64 m3/s; Hồ Sông Tranh 2: 132 m3/s; Hồ Sông Ba Hạ: 480 m3/s (xả tràn 50 m3/s); Hồ Sông Hinh: 46 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 4/10 (m) Mực nước chết Mực nước hồ ngày 4/10 so với ngày 3/10 (m) Mực nước hồ ngày 4/10 so với mực nước chết (m) Mực nước dâng bình thường / Mực nước trước lũ (m)
Hồ A Vương 349,89 340 -0,04 +9,89 Mực nước trước lũ: 376 m
Hồ Đăkđrink 391,67 375 -0,08 +16,67 Mực nước trước lũ: 405 m
Hồ Sông Bung 4 207,1 205 +0,35 +2,1 Mực nước trước lũ: 217,5 m
Hồ Sông Tranh 2 145,93 140 +0,09 +5,93 Mực nước trước lũ: 172 m
Hồ Sông Ba Hạ 102,98 101 -0,01 +1,98 Mực nước trước lũ: 103 m
Hồ Sông Hinh 197,71 196 +0,09 +1,71 Mực nước trước lũ: 207 m

Hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên

Các hồ thủy điện khu vực Tây Nguyên lưu lượng về hồ nhiều, giảm nhẹ so với ngày 3/10: Hồ Buôn Kuốp: 376 m3/s (xả tràn 38 m3/s); Hồ Buôn Tua Srah: 186m3/s (xả tràn 26 m3/s); Hồ Đại Ninh: 39 m3/s; Hồ Hàm Thuận: 70 m3/s; Hồ Đồng Nai 3: 146 m3/s; Hồ Ialy: 415 m3/s (xả tràn 10 m3/s); Hồ Pleikrông: 210 m3/s (xả tràn 10 m3/s); Hồ Sê San 4: 675 m3/s; Hồ Thượng Kon Tum: 37 m3/s.

Hồ thủy điện Mực nước hồ ngày 4/10 (m) Mực nước chết Mực nước hồ ngày 4/10 so với ngày 3/10 (m) Mực nước hồ ngày 4/10 so với mực nước chết (m) Mực nước dâng bình thường / Mực nước trước lũ (m)
Hồ Buôn Kuốp 411,5 409 +0,12 +2,5 Mực nước dâng bình thường: 412 m
Hồ Buôn Tua Srah 486,38 465 -0,04 +21,38 Mực nước trước lũ: 486,5 m
Hồ Đại Ninh 876,15 860 +0,05 +16,15 Mực nước trước lũ: 878,0 - 880,0 m
Hồ Hàm Thuận 603,3 575 +0,14 +28,3 Mực nước trước lũ: 604,0 - 605,0 m
Hồ Đồng Nai 3 586,44 570 +0,06 +16,44 Mực nước trước lũ: 587,5 - 590,0 m
Hồ Ialy 513,35 490 -0,03 +23,35 Mực nước trước lũ: 513,2 m
Hồ Pleikrông 569,5 537 0 +32,5 Mực nước trước lũ: 569,5 m
Hồ Sê San 4 214,5 210 +0,05 +4,5 Mực nước trước lũ: 214,5 m
Hồ Thượng Kon Tum 1.151,48 1.138 +0,20 +13,48 Mực nước trước lũ: 1.157 m

Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống tháng 9/2023 đạt 23,5 tỷ kWh (trung bình 784,9 triệu kWh/ngày), tăng 6,7% với cùng kỳ năm 2022; sản lượng ngày cao nhất đạt 869,9 triệu kWh và công suất cao nhất đạt 42.054 MW (ngày 22/9). 

Lũy kế 9 tháng, sản lượng toàn hệ thống đạt 209,9 tỷ kWh, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy điện đạt 58,05 tỷ kWh, chiếm 27,7%. Do vào đầu tháng 9 lưu lượng nước về các hồ tốt trên cả 3 miền nên thủy điện được khai thác tăng, đặc biệt là các hồ thủy điện đa mục tiêu.

Số liệu từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) cho thấy, ngày 4/10, sản lượng toàn hệ thống điện quốc gia đạt 836,3 triệu kWh, tăng 24,9 triệu kWh so với ngày 3/10. Trong đó, thủy điện đạt 304 triệu kWh, tăng 6,3 triệu kWh; nhiệt điện than 350,6 triệu kWh, tăng 0,7 triệu kWh; tuabin khí (Gas + dầu DO) 73,2 triệu kWh, tăng 5,5 triệu kWh; điện gió 16,2 triệu kWh, giảm 0,8 triệu kWh; điện mặt trời 74,2 triệu kWh, tăng 12,6 triệu kWh; nhập khẩu điện 16,6 triệu kWh, tăng 0,6 triệu kWh; nguồn khác 1,5 triệu kWh, tương đương so với ngày 3/10.

Công suất lớn nhất trong ngày 4/10 đạt 40.235,7 MW (lúc 15h00).

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, hiện nay, một bộ phận áp cao lục địa từ phía Bắc đang tăng cường lệch Đông.

Dự báo, do ảnh hưởng của rìa tây nam lưỡi áp cao lục địa tăng cường lệch Đông kết hợp với hội tụ gió trên mực 1.500m nên từ chiều tối và đêm ngày 06/10 đến sáng ngày 7/10, ở khu vực Bắc Bộ có mưa rào và dông, riêng vùng núi và trung du có mưa vừa, có nơi mưa to với lượng mưa 20-40mm, có nơi trên 70mm.

Hồi 13 giờ ngày 05/10, vị trí tâm bão KOINU ở vào khoảng 22,0 độ Vĩ Bắc; 120,1 độ Kinh Đông, trên vùng biển phía Tây Nam đảo Đài Loan (Trung Quốc). Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 12-13 (118-149km/h), giật cấp 16, di chuyển theo hướng Tây, tốc độ khoảng 10km/h. Từ 72 đến 96 giờ tiếp theo, áp thấp nhiệt đới di chuyển chủ yếu theo hướng Tây Tây Nam, mỗi giờ đi được khoảng 5km và suy yếu thành một vùng áp thấp.

Thy Thảo