Năng lượng, phát triển bền vững và Việt Nam

Dưới đây là nghiên cứu và đề xuất của KS Đặng Đình Cung, kiều bào ở Pháp

Phát triển bền vững là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện nay mà không làm nguy hại đến khả năng những thế hệ sau đáp ứng được nhu cầu của họ. Một vế của chiến lược bền vững là cung ứng và tiêu thụ năng lượng. Làm gì để vẫn còn có thể tiếp tục cung ứng năng lượng khi những nguồn năng lượng không tái tạo sẽ cạn và tiêu thụ năng lượng ra sao để không vi phạm đến môi trường tự nhiên ?

Trong một bài trước, chúng tôi có trình bày một số yếu tố đóng góp vào giải đáp vấn đề này. Trong bài này chúng tôi xin phân tích vị trí chiến lược của ngành năng lượng Việt Nam. Từ phân tích đó, chúng tôi xin phác họa một mô hình chiến lược cung ứng và tiêu thụ năng lượng để Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững

Những số liệu chúng tôi dẫn chứng và dùng để tính và vẽ các họa đồ trong bài này do EIA, IEA, UNEP, WEC, APERC và TCTK cung cấp. Chúng tôi cập nhật kinh nghiệm cá nhân về năng lượng từ những sách giáo khoa mới được xuất bản, từ những thông số kỹ thuật do ADEME và IFP cung cấp và, chủ yếu, từ báo cáo "2007 Survey of Energy Resources" cuả WEC.

Các sách báo chuyên môn dùng nhiều đơn vị năng lượng khác nhau. Để tiện việc so sánh và để dùng một đơn vị nhiều người biết đến và quen dùng, trong bài này chúng tôi chuyển những số liệu đã được công bố sang đơn vị TWh (Têra watt giờ, một triệu kWh) hay kWh (Kilô watt giờ) thường dùng trong ngành điện.

PHẦN 1 – PHÂN TÍCH CHIẾN LƯỢC

Điểm mạnh

Những nguồn năng lượng

Ưu điểm chính của Việt Nam là chỉ số độc lập năng lượng cao. Năm 2005, chỉ số này là 158 phần trăm, gấp đôi chỉ số trung bình của tất cả các nước Châu Á và Châu Đại Dương (bảng 1). Từ 1996 đến 2005, mỗi năm chỉ số đó tăng trung bình 1,5 điểm % nhờ mỗi năm sản xuất tăng trung bình 8,7 % và tiêu thụ chỉ tăng trung bình có 7,1 phần trăm.

Bảng 1 : Sản xuất và tiêu thụ năng lượng cơ bản của Việt Nam và của một số quốc gia Châu Á và Châu Đại Dương (Tính từ số liệu của EIA, 2005)

* Tiêu thụ Tiêu thụ Sản xuất Sản xuất Chỉ số độc lập * (TWh) (%) (TWh) (%) (%) Ấn Độ 4 749 3,8 3 438 2,9 72 Australia 1 610 2,6 3 290 3,9 204 Đài Loan 1 318 3,8 142 0,1 11 Hàn Quốc 2 719 3,1 440 6,1 16 Indonesia 1 571 4,2 2 730 2,3 174 Malaysia 746 4,4 1 142 3,2 153 Nhật Bản 6 615 0,7 1 202 0,3 18 Philippines 392 2,7 144 7,6 37 Thailand 1063 4,0 515 6,0 49 Trung Quốc 19663 6,3 18531 5,7 94 Việt Nam 359 7,1 568 8,7 158 Châu Á và Châu Đại Dương 43403 4,2 33750 4,4 78

Ghi chú :

1. Sản xuất và tiêu thụ tính cho năm 2005.

2. Chỉ số độc lập về năng lượng tính cho năm 2005.

3. Tăng trưởng trung bình hàng năm tính từ 1996 đến 2005.

Ưu điểm này được tăng cường bởi điều kiện tự nhiên thuận lợi.

1. 38 % nguồn năng lượng cơ bản là năng lượng tái tạo. So với 13 % trung bình của thế giới, đây là một tỷ lệ rất lớn. Ở dạng cơ bản, chất đốt rắn tái tạo và rác dồi dào hơn dầu thô và than đá (bảng 2). Nguồn năng lượng này cung ứng hơn một nửa năng lượng khả dụng của Việt Nam.

Bảng 2 – Sản xuất, cung ứng và và tiêu thụ năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005)

* Cơ bản (TWh) Cung ứng (TWh) Khả dụng (TWh) Than 211 95 70 Dầu thô 226 5 0 Sản phẩm dầu 0 139 139 Khí 72 57 1 Thủy năng 21 21 0 Chất đốt rắn tái tạo và rác 279 279 270 Điện 0 0 46 Tổng cộng 809 597 526

2. Với hơn 3400 km bờ biển và nhiều sông với lưu lượng nước lớn, khả năng xây nhà máy nhiệt điện của Việt Nam có thể coi là vô tận. Một nhà máy nhiệt điện, cổ điển hay hạt nhân, cần đến nhiều nước để làm nguội bộ ngưng và cũng cần đến một bến cảng chuyên dụng để tiếp nhận nhiên liệu. Một nhà máy nhiệt điện phải được xây ở bờ biển hay bờ một sông lớn và, nếu có thể, ở một nơi có thể xây bến cảng. Đa số người Việt Nam sống gần bờ biển hay bờ sông. Tải điện từ những nhà máy nhiệt điện đến nơi tiêu dùng không tốn kém mấy.

3. Tiềm năng kinh tế của thủy điện ( tính với giá năng lượng năm 2005 ) là 78 TWh mỗi năm. Việt Nam mới khai thác chưa tới phần tư tiềm năng kinh tế đó và non 15 % tiềm năng kỹ thuật (bảng 3). Tiềm năng kinh tế đó mỗi ngày mỗi tăng với gia tăng của giá năng lượng trên thị trương quốc tế. Trong vòng vài năm nữa những nhà máy đang lắp đặt thêm sẽ nhân đôi sản lượng thủy điện. Đây là tỷ số tăng trưởng cao nhất thế giới.

Bảng 3 – Tiềm năng và công suất của thủy năng ( WEC, 2005 )

* Tiềm năng (TWh/năm) Lý thuyết 300 Khả thi kỹ thuật 123 Khả thi kinh tế 78 Sản lượng (2005) 18 * Công suất (GW) Hiện có 4,2 Đang lắp đặt thêm 7,8 Dự trù lắp đặt thêm 4,6

4. Nông nghiệp sinh ra nhiều phụ phẩm và phế liệu có thể dùng làm nguồn năng lượng sinh học. Việt Nam là một nước xuất khẩu nông nghiệp có tầm vóc lớn và nông nghiệp Việt nam tăng trưởng khoảng 4 % mỗi năm. Trong số những chất đốt rắn thì Việt Nam có nhiều củi gỗ, phế liệu những nhà máy chế biến gỗ, phế liệu nông phẩm và rác đô thị. Thêm vào đó, bờ biển dài cho phép lập nhiều trại trồng rong làm nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học.

5. Tiềm năng của năng lượng gió có thể dự đoán là rất lớn vì Việt Nam ở vùng gió mùa thổi và bờ biển dài với đáy biển nông cho phép lập nhiều trang trại phong điện (wind power farm). Nếu lắp đặt những trại phong điện ở ngoài khơi thì giảm được ô nhiễm thẩm mỹ và ô nhiễm âm thanh. Những quạt phong điện sẽ hoàn vốn mau hơn trung bình những nước khác nhờ đáy biển nông và gió ở ngoài khơi thổi đều dặn suốt năm.

6. Những nguồn năng lượng tái tạo khác chưa được khai triển nhưng tiềm năng cũng có nhiều dấu hiệu lạc quan :

- Những hệ thống dùng bản mặt trời để hấp thụ năng lượng mặt trời sẽ hoàn vốn mau hơn những nước khác nhờ mặt trời chiếu đều đặn quanh năm,

- Dọc bờ biển miền Trung có một luồng nước ngầm có thể chạy những tuabin khai thác năng lượng biển,

- Những suối nước nóng tự nhiên trên khắp lãnh thổ là dấu hiệu một nguồn năng lượng từ lòng đất tiềm tàng quan trọng.

Tất cả những tiềm năng này cần được xác định chính xác hơn.

Tiêu thụ năng lượng

Cơ cấu năng lượng tiêu thụ ở Việt Nam thuộc loại thân thiện với môi trường :

- Hơn một nửa năng lượng khả dụng là năng lượng tái tạo ( bảng 2 và hình 1 ),

- Tổng cộng 80 % điện lực được sản xuất từ thủy năng và khí đốt (hình 2), hai loại năng lượng dùng để sản xuất điện ô nhiễm môi trường ít nhất.

Hình 1 – Tiêu thụ năng lượng chia theo nguồn năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005)

Hình 2 – Tiêu thụ năng lượng để sản xuất điện chia theo nguồn năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005)

1. Theo EIA, năm 2005, tổng công suất những nhà máy điện của Việt Nam là 11,3 MW sản xuất 51,3 TWh. Từ mười năm nay, công suất tăng trung bình 9,4 % mỗi năm và sản lượng điện tăng 7,1 % mỗi năm. Những tỷ số tăng trưởng này lớn hơn gấp hai lần trung bình các nước Châu Á và Châu Đại Dương (bảng 4).

Bảng 4 Sản xuất và tiêu thụ điện của Việt Nam và một số quốc gia Châu Á và Châu Đại Dương (Tính từ số liệu của EIA, 2005)

* Tiêu thụ * Sản xuất * Công suất lắp đặt * * (TWh) (%) (TWh) (%) (GW) (%) Ấn Độ 489 4,1 662 4,7 138 3,6 Australia 220 3,4 237 3,4 49 2,3 Đài Loan 202 5,8 210 5,6 37 5,3 Hàn Quốc 352 5,6 366 5,5 62 7,1 Indonesia 105 6,2 120 6,3 23 3,7 Malaysia 79 6,0 82 5,3 24 8,4 Nhật Bản 974 0,6 1025 0,6 248 1,9 Philippines 47 4,9 54 4,3 16 4,7 Thailand 118 4,4 125 4,1 26 5,6 Trung Quốc 2197 8,7 2372 8,6 442 7,1 Việt Nam 45 12,3 51 11,3 11 9,4 Châu Á và Châu Đại Dương 5075 5,2 5589 5,2 1150 4,7

Ghi chú :

a. Sai biệt giữa sản xuất và tiêu thụ là do xuất hay xuất nhập khẩu điện và mất điện trên đường dây tải điện.

b. Sản xuất, tiêu thụ và công suất lắp đặt tính cho năm 2005.

c. Tăng trưởng trung bình hàng năm tính từ 1996 đến 2005.

2. Đốt khí tự nhiên thải ít bụi và ít khí có hiệu ứng nhà kính hơn là đốt than và sản phẩm dầu. Theo thống kê của IEA, năm 2005, Việt Nam sản xuất 72,1 TWh khí tự nhiên trong đó 56,0 TWh đã được dùng để sản xuất 20,6 TWh điện. Nhờ dùng tuabin khí với chu trình kết hợp hiệu suất năng lượng đạt 37 phần trăm, hơn hiệu suất trung bình của thế giới một chút.

3. Than Việt Nam chủ yếu đào từ vùng mỏ Quảng Ninh. Đây là loại than anthracit, nghĩa là một loại than có hàm lượng năng lượng cao. Hiện nay chính phủ không cho xuất khẩu than để dành than chạy những nhà máy nhiệt điện. Vì những nhà máy đã được xây trong thời gian gần đây nên thụ hưởng công nghệ CCT (Clean Coal Technology, Công nghệ Than Sạch), ít ô nhiễm hơn những nhà máy cũ của các nước láng giềng.

4. Hầu như tất cả lưu vực các sông Việt Nam đều có thể được quy hoạch thành thang thủy lợi. Đây là phương pháp tối ưu việc cung ứng nước cho thủy điện cũng như cho các nhu cầu của nông nghiệp, giao thông, du lịch, giải trí,.... Trên phương diện kinh tế, điện của giờ cao điểm được tích trữ dưới dạng nước được bơm lên những hồ tích năng và, vào những giờ thấp điểm, nước ở trong những hồ tích năng đó sẽ được quấy ráo để sản xuất điện trở lại.

Điểm yếu

Khuyết điểm lớn nhất của ngành năng lượng Việt Nam là sự phung phí tài nguyên năng lượng và khả năng tài chính để đầu tư vào những cơ sở sản xuất năng lượng.

Những nguồn năng lượng

1. Chất đốt rắn tái tạo và rác tổng cộng hơn một nửa lượng năng lượng khả dụng đã được tiêu thụ. Nhưng tỷ lệ đó biểu hiện một nước lạc hậu người dân đốt củi, than củi và phế liệu của nông nghiệp để nấu thức ăn và dùng vào vài sinh hoạt khác. Rừng cây bị phá để có củi và than củi. Những phế liệu nông nghiệp bị đốt thay vì dùng làm phân bón tự nhiên.

2. Điện là nguyên do chính của những khó khăn hiện nay của Việt Nam về năng lượng :

- Nhầm lẫn công suất, tính bằng mêga watt, và năng suất, tính bằng têra watt giờ mỗi năm, của một dự án nhà máy điện,

- Không tính hay tính sai tỷ số lợi nhuận trước khi thực hiện những dự án,

- Không dự trù khả năng cân bằng cung ứng với biến đổi của nhu cầu ở mỗi thời điểm.

Những mêga watt đo khả năng sản xuất điện ở một thời điểm nào đó còn những têra watt giờ đo lượng điện đã được cung ứng. Hai nhà máy điện, đặc biệt hay nhà máy thủy điện, cùng công suất không nhất thiết có cùng một năng suất. Cộng những công suất để dự báo lượng điện sẽ được cung ứng dẫn tới thiếu hụt giữa thực tế và dự báo.

Xây một nhà máy thủy điện thì sau này sẽ có điện gần như miễn phí. Nhưng so với một nhà máy nhiệt điện thì nhu cầu vốn đầu tư cho một đơn vị công suất của một nhà máy thủ điện cao hơn và thời gian để hoàn tất công trình cũng lâu hơn. Kết quả là một nhà máy nhiệt điện hoàn vốn mau hơn, vốn hoàn lại đó có thể dùng để xây dựng một công trình khác. Như thế, một hệ thống nhà máy nhiệt điện có thể tăng trưởng mau hơn là một hệ thống thủy điện. Chúng tôi không đi sâu hơn vào phương pháp tính tỷ số lợi nhuận để tuyển lựa giữa những dự án khác nhau.

Một nhà máy thủy điện có thể phản ứng trong vòng vài phút để phát điện hay ngưng phát điện, một nhà máy nhiệt điện cần đến vài giờ và một nhà máy điện hạt nhân cần đến vài ngày. Vì thế người ta thường dùng thủy điện để cân bằng mạng phân phối điện chứ ít khi dùng để sản xuất lượng điện cơ sở. Thêm nữa, lượng mưa có thể biến đổi từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác. Dùng thủy điện làm cơ sở thì những mùa hạn hán, những năm mưa ít sẽ thiếu điện.

Vì ba sai lầm đó mà Việt nam đang thiếu điện và thiếu vốn để xây những công trình sản xuất điện.

3. Thay vì có một chính sách năng lượng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và thiên nhiên, Việt Nam chạy theo thị hiếu đương thời với những dự án phiêu lưu hay, ít ra, lãng phí tiền của và công lao của người dân. Sau đây là một số thí dụ :

- Quyết định xây nhà máy điện hạt nhân mà không đào tạo trước nhân lực kỹ thuật và nâng cao dân trí về an toàn công nghiệp,

- Kêu gọi đầu tư vào những công trình quang điện và phong điện mà không tính rằng những nguồn điện đó chưa khả thi về phương diện kinh tế,

- Đặt chỉ tiêu sản xuất nhiên liệu sinh học mà chưa nghiên cứu hiệu ứng đến môi trường và sử dụng đất dành cho nông nghiệp,

- Thay vì xây hạ tầng cho đường thủy và đường sắt, có khả năng vận tải lớn và tiêu thụ ít năng lượng, thì tiếp tục ưu tiên xây những hạ tầng cho vận tải bằng xe ôtô, với khả năng vận tải kém hơn, tốn kém về năng lượng hơn lại vừa lấn chiếm hơn nhiều đất có thể dùng vào việc khác.

4. Những dự án đã đưa vào thi công bị chậm trễ vì nguồn tài trợ không được dự trù đủ và vì cán bộ cũng như công nhân thiếu kỹ năng nghiệp vụ. Không những thế mà những tổng công ty quốc doanh phung phí tài chính ngắn hạn vào những khoản đầu tư không liên quan gì đến mục địch kinh doanh của công ty : khách sạn, ngân hàng, viễn thông,.... Một thị trường phát điện cạnh tranh được thành lập như là một phép mầu sẽ mang lại những kilô watt giờ hiện đang thiếu.

Tiêu thụ năng lượng

Theo thống kê của EIA, Việt Nam sử dụng 27.400 BTU (8,0 TWh) để sản xuất một đôla Mỹ GDP ( Gross Domestic Product, Tổng Sản Lượng Quốc Nội ). Cường độ tiêu thụ năng lượng này gần gấp hai lần Hàn Quốc, gấp ba lần rưỡi Pháp, gấp ba lần Hoa Kỳ, quốc gia nổi tiếng là phung phí năng lượng. Từ một chục năm nay, cường độ tiêu thụ năng lượng trên thế giới giảm trung bình 0,5 % mỗi năm. Cường độ này ở các nước Châu Á và Châu Đại Dương cũng giảm theo nhịp đó. Nhờ tiến bộ công nghệ, các nước công nghiệp giảm cường độ tiêu thụ năng lượng mau hơn. Từ mười năm nay, mỗi năm cường độ này giảm 0,6 % ở Hàn Quốc, 1,0 % ở Pháp và 2,2 % ở Hoa Kỳ. Việt Nam là một trong số ít những quốc gia có cường độ tiêu thụ năng lượng gia tăng (hình 3). Trung Quốc có cường độ tiêu thụ năng lượng cao hơn nhiều và cường độ tiêu thụ năng lượng đó tăng từ năm 2000 cho tới nay. Nhưng Trung Quốc không phải là một kiểu mẫu để noi theo.

Hình 3 Tiêu thụ năng lượng để sản xuất một nghìn USD (Tính từ số liệu của IEA)

1. Thống kê của IEA cho thấy nguyên nhân của sự lãng phí này. Trung bình trên thế giới, năng lượng khả dụng được chia đồng đều cho công nghiệp, giao thông vận tải, tiện nghi nhà ở và những sử dụng khác. Những sử dụng khác chủ yếu là các ngành lọc dầu và hóa chất, hai ngành sản xuất công nghiệp. Thương mại và dịch vụ công cộng là những hoạt động sản xuất dịch vụ. Các nước có chính sách kinh tế nghiêm chỉnh ưu tiên dành năng lượng cho sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Thí dụ, Hàn Quốc dành 87 % năng lượng cho sản xuất, Pháp ba phần tư. Ở Việt nam thì 60 % năng lượng dùng cho tiện nghi nhà ở và không sinh lợi gì (hình 4).

Hình 4 Tiêu thụ năng lượng theo ngành (Tính từ số liệu của IEA, 2005)

2. Nhận xét này thể hiện rõ hơn với phân bố tiêu thụ điện (hình 5). Ở Pháp, một nước khuyến khích sử dụng điện trong những áp dụng gia dụng và dịch vụ nhờ có nhiều nhà máy điện hạt nhân, 35 % điện dùng cho tiện nghi nhà ở. Ở Hàn Quốc chỉ có 14 % . Ở Việt Nam thì 42 % điện dùng cho tiện nghi nhà ở thay vì dùng để sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Tiêu thụ điện tăng gấp rưỡi lần tăng trưởng của kinh tế mà lại chủ yếu ít dùng cho sản xuất. Mọi chuyện diễn ra như điện lực ở Việt Nam là một xa xỉ phẩm được cấp cho người có tiền mua những thiết bị cơ điện nội thất chứ không phải là một nhân tố sản xuất.

Hình 5 – Tiêu thụ điện theo ngành (Tính từ số liệu của IEA, 2005)

3. Theo TCTK, từ 1990 đến 2005, lượng hàng luân chuyển tăng 9,4 % mỗi năm, cao hơn tăng trưởng trung bình của tổng sản lượng quốc nội chừng 1,5 điểm % (hình 6).

Hình 6 - Thị phần và tăng trưởng những phương tiện giao thông vận tải

Nhưng thống kê chi tiết cho thấy, ngược lại với xu hướng các nước công nghiệp tiên tiến đang tìm cách giảm tỷ số lượng hàng vận chuyển bằng đường bộ :

- Ngành đường sắt và đường sông gia tăng ít hơn tăng trưởng của tổng sản lượng quốc nội,

- Và ngành hằng hải chỉ tăng có 10 % mỗi năm ít hơn tăng trưởng 14 % mỗi năm của ngoại thương mà hàng ngoại thương thì chủ yếu được luân chuyển bằng đường biển.

Tỷ số tăng trưởng lớn của ngành hàng không không có ý nghĩa vì lượng hàng luân chuyển bằng phương tiện này không đáng kể. Nhưng cũng là một nguồn gia tăng nhu cầu năng lượng. Đặc biệt, không có lý do gì phải lập một công ty hàng không giá rẻ (low cost airline) nội địa như Pacific Airlines để sinh ra một thị trường đi lại bằng đường hàng không.

4. Chính sách đô thị với nhiều cao ốc và trung tâm thương mại gây ra tiêu thụ năng lượng và ùn tắc giao thông nhiều hơn là những khu nhà ít tầng với những cơ sở thương mại bán lẻ kế bên. Ùn tắc giao thông gây ra tiêu thụ sản phẩm dầu một cách vô ích và gây ra ô nhiễm khí quyển tới độ xâm phạm tới sức khỏe của cư dân. Ùn tắc mỗi năm mỗi trầm trọng hơn vì :

- Những cao ốc và trung tâm thương mại làm tăng nhu cầu đi lại bằng cơ giới,

- Dân số những thành thị lớn tăng làm cho nhu cầu giao thông tăng và số xe vận tải vào nội thành để tiếp tế cư dân cũng tăng.

5. Nhà riêng cũng như chung cư mới xây thường không theo những quy tắc của kiến trúc khí hậu sinh học truyền thống. Đặc biệt, nhiều nhà không được cách nhiệt, không tự nhiên thông gió và không có bộ phận chắn nắng. Những nhà như vậy, đặc biệt những cao ốc, cần rất nhiều năng lượng để bảo đảm một tối thiểu về tiện nghi.

Thời cơ

Thời cơ rất thuận lợi cho Việt Nam hợp tác quốc tế trong mọi lãnh vực tài chính, khảo sát tài nguyên, phát triển công nghệ hạt nhân và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.

1. Việt Nam đang xuất siêu năng lượng và giá năng lượng cao hiện nay tham gia vào những cố gắng kiềm chế nhập siêu của toàn bộ ngoại thương. Từ khi gia nhập WTO ( World Trade Organization, Tổ chức Mậu dịch Quốc tế ), xí nghiệp nước ngoài ồ ạt đăng ký đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Một số lớn vốn này có thể được hướng vào những dự án sản xuất và nghiên cứu triển khai cung ứng và sử dụng năng lượng hợp lý.

2. Nhiều nước bạn muốn Việt Nam tham gia vào những dự án năng lượng của họ. Những mỏ hydrô cácbua ở Trung Đông đã bị các cường quốc công nghiệp và các hãng dầu lớn dành hết rồi. Nhưng vẫn còn nhiều quốc gia thuộc Liên Xô cũ và một số nước khác đang tìm đối tác thân thiện để vừa khai thác chung tài nguyên của họ vừa trao đổi kinh nghiệm cải cách kinh tế xã hội. Với thành tích hơn hai chục năm chính sách Đổi Mới Việt Nam là một đối tác lý tưởng.

3. Uy tín quốc tế của Việt Nam sẽ giúp khai triển những kế hoạch về năng lượng trên quy mô quốc tế. Việt nam đã được kết nạp vào WTO, được bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc,... Với những hiệp ước NPT ( Nuclear Non Proliferation Treaty, Hiệp ước Chống tăng sinh vũ khí hạt nhân ) và hiệp ước Bangkok ( Southeast Asia Nuclear Weapon Free Zone Treaty, Hiệp ước Đông Nam Á là Vùng không có vũ khí hạt nhân ) và những hiệp ước khác Việt Nam đã ký, không còn ai phủ nhận Việt Nam cương quyết khai triển năng lượng hạt nhân với mục đích duy nhất là củng cố hoà bình. Chính sách "làm bạn với mọi người" tạo cơ hội hợp tác quốc tế trên mọi mặt thương mại, kỹ thuật cũng như khoa học liên quan đến năng lượng hạt nhân. Với uy tín đó Việt Nam đã và đang được IAEA, các tổ chức quốc tế khác và các xí nghiệp siêu quốc gia trợ giúp khai triển những nhà máy điện hạt nhân tương lai.

4. Nông nghiệp và năng lượng là nhu cầu cốt yếu của nhân loại. Hai ngành này sẽ là trung tâm của những cuộc cách mạng công nghệ sắp tới. Những công trình nghiên cứu triển khai cần đến nhiều vốn, những bước tiến nhảy vọt sẽ không xảy ra thường xuyên và những công nghiệp năng lượng sẽ không biến chuyển mau chóng như công nghệ thông tin. Với triển vọng nguồn năng lượng không tái tạo một ngày nào đó sẽ cạn, nhiều vốn đang được đổ vào những dự án khai triển ứng dụng cũng như những dự án nghiên cứu cơ bản liên quan đến sản xuất, tiết kiệm và tiêu thụ năng lượng. Nhờ đó các nước đang nhoi lên, như Việt Nam, vẫn còn cơ hội tham gia vào những dự án nghiên cứu triển khai về năng lượng của thế giới.

Đe dọa

Đe dọa chính là những nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút khỏi Việt Nam, vì hiện nay thiếu điện và rủi ro trung hạn sẽ thiếu năng lượng. Nguyên do là Việt Nam đã không đầu tư đúng lúc để theo kịp tăng trưởng kinh tế. Vài năm nữa, những dự án công nghiệp nặng đang đưa vào thực hiện sẽ tiêu thụ nhiều năng lượng và nguy cơ thiếu năng lượng sẽ trầm trọng hơn.

Năng lượng hóa thạch

Mặc dù sản xuất năng lượng cơ bản khiêm tốn, Việt Nam vẫn còn xuất siêu về năng lượng vì nhiều nguyên nhân. Công nghiệp Việt Nam có tăng trưởng nhưng chưa đạt trình độ để tiêu thụ hết năng lượng sản xuất. Những ngành công nghiệp biến chế khoáng sản thành sản phẩm trung gian (luyện kim, hóa chất, lọc dầu, ximăng,...) là những ngành công nghiệp tiêu thụ năng lượng nhiều nhất và gây ô niễm khí quyển nhiều nhất. Ở Việt Nam, những ngành này chưa quan trọng mấy. Những ngành công nghiệp chủ lực là những ngành dùng nhiều nhân công với hàm lượng năng lượng thấp. Những dự án đầu tư và kêu gọi đầu tư vào những ngành phân hóa học, lọc dầu hay luyện kim sẽ là nguy cơ thay đổi tình trạng xuất siêu năng lượng này trong vài năm tới.

Theo bảng 5 trích từ thống kê của WEC dựa trên trữ lượng đã được chứng minh và nhịp khai thác năm 2005 thì tối đa 33 năm nữa là không còn tài nguyên năng lượng hóa thạch nữa. Khí tự nhiên còn có thể khai thác được trong hơn 90 năm nữa nhưng tài nguyên dầu mỏ và than sẽ cạn trong vài năm tới. Nếu kể thêm tăng trưởng của nhu cầu năng lượng thì tình hình này nguy cập.

Bảng 5 – Trữ lượng những năng lượng không tái tạo (WEC, 2005)

Theo bảng 5 quy ra đơn vị TWh thì trữ lượng năng lượng hóa thạch hiện nay của Việt Nam tổng cộng 9.900 TWh. Nếu Việt Nam không có chính sách năng lượng độc đáo nào và, với giả thuyết :

- Sản lượng thủy điện đã đạt tiềm năng kinh tế, 78 TWh mỗi năm,

- Nhờ trao đổi những loại năng lượng với các nước khác,

- Nhờ biến đổi công nghiệp, có thể chuyển từ loại năng lượng hóa thạch này sang loại năng lượng hóa thạch khác,

- Nhu cầu năng lượng cơ bản sẽ tăng 7,1 % mỗi năm như trung bình từ mười năm trước,

- Sản xuất năng lượng cơ bản sẽ tăng 8,4 % mỗi năm như trung bình từ mười năm trước thì sẽ có hai thời điểm trữ lượng năng lượng hóa thạch sẽ cạn hết tùy ở chính sách tiếp tục xuất khẩu năng lượng hay không.

Nếu Việt Nam ngưng ngay xuất khẩu năng lượng mà chỉ khai thác tài nguyên để thoả mãn nhu cầu nội địa thì chậm nhất 11 năm nữa là Việt Nam sẽ tiêu thụ hết trữ lượng năng lượng hóa thạch đã được chứng minh. Mười một năm nữa kể từ năm 2005 sẽ là năm 2016. Năm đó, nhịp độ khai thác và tiêu thụ năng lượng cơ bản sẽ là 756 TWh. Nếu Việt Nam tiếp tục xuất khẩu năng lượng theo nhịp trung bình từ mười năm nay thì chỉ 5 năm nữa là sẽ nhập siêu năng lượng. Năm năm nữa kể từ năm 2005 sẽ là năm 2010. Năm đó nhịp độ khai thác năng lượng cơ bản sẽ là 837 TWh với nhịp độ tiêu thụ nội địa là 504 TWh.

Những giả thuyết dùng cho hai kịch bản này là những giả thuyết thuận lợi nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên những dự báo bi quan này chưa tính đến .

- Những cố gắng để tiết kiệm năng lượng,

- Mỏ dầu mới được khám phá thêm ở vùng Hải Sư Trắng,

- Bể than dưới mặt đất tỉnh Quảng Ninh và dưới đáy biển Vịnh Hạ Long,

- Và một mỏ than rất lớn ở đồng bằng Bắc Bộ.

Thủy năng

1. Tỷ trọng thủy điện gần một nửa là quá cao. Tình trạng này sẽ trầm trọng hơn với những dự án sẽ đưa vào vận hành trong vài năm nữa. Vấn đề là lượng nước mưa biến động từ năm này qua năm khác và từ mùa này qua mùa khác làm cho lượng điện được sản xuất nhờ những hồ chứa cũng biến động theo.

2. Những công trình thủy lợi là một đe dọa đến an toàn dân chúng sống ở hạ lưu những hồ chứa. Dù thiết kế và xây cất kỹ đến đâu chăng nữa, một đập thủy lợi vẫn có rủi ro bị vỡ. Một thang thủy lợi gia tăng xác suất rủi ro này. Chúng tôi chưa được biết tin chính quyền trung ương hay chính quyền địa phương thông tin dân chúng về cách ứng xử khi có sự cố và tổ chức những khóa thao luyện cứu trợ và sơ tán dân chúng khi có sự cố đập bị vỡ.

Năng lượng hạt nhân

Chúng tôi lấy giả thuyết nhu cầu điện sẽ tăng 7,8 % mỗi năm từ nay cho đến 2035. Đây là một tỷ số thực tế bao gồm tăng trưởng kinh tế, những cố gắng về tiết kiệm năng lượng, ngành đường sắt chuyển sang sử dụng điện và các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều điện hơn. Chúng tôi thêm giả thuyết một khoản điện hạt nhân 1.000 MW có thể cung ứng 7,50 TWh mỗi năm và khoản 1.500 MW có thể cung ứng 11,25 TWh mỗi năm.

1. Với hai giả thuyết đó thì năm 2015 nhu cầu điện sẽ là 108,7 TWh, tăng thêm 7,9 TWh so với năm trước. Một phần tăng trưởng nhu cầu của năm đó có thể được đáp ứng bởi một lò phản ứng 1.000 MW sản xuất 7,5 TWh mỗi năm kể từ năm đó. Nếu cứ tiếp tục xây nhà máy điện hạt nhân để đáp ứng gia tăng nhu cầu điện của mỗi năm tối đa bằng điện hạt nhân thì đến năm 2035, khi nguồn cung ứng năng lượng hóa thạch đã có xu hướng giảm, nhu cầu điện sẽ là 488 TWh và Việt Nam đã phải xây 19 lò phản ứng 1.000 MW và 18 lò phản ứng 1.500 MW, sản xuất tổng cộng 345 TWh mỗi năm, nghĩa là 71 % nhu cầu điện của năm đó. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ điện hạt nhân hiện nay của Pháp, quốc gia có tỷ lệ điện hạt nhân cao nhất thế giới. Tỷ lệ này chưa bao hàm những lò hơi cổ điển có thể được thay thế bằng lò hơi hạt nhân.

Tỷ số tăng trưởng nhu cầu điện bằng 7,8 % mỗi năm là một ước tính dài hạn cho tới năm 2030/2040. Từ mười năm nay tỷ số đó bằng 12,3 nhưng, từ nay cho tới năm 2015, khó mà có thể xuống dưới 10,0 % mỗi năm. Với nhu cầu điện bằng 10,0 % mỗi năm thì năm 2010 đã có đủ nhu cầu bội thêm để khởi động một nhà máy hạt nhân rồi.

Để có điện hạt nhân năm 2015 thì phải đã bắt đầu xây nhà máy năm 2010 và đã phải bắt đầu đào tạo nhân lực kỹ thuật muộn nhất phải bắt đầu từ năm 2000. Nhưng lịch trình đó chỉ đủ để Việt Nam có điện từ năng lượng hạt nhân thôi. Để đi vào kỷ nguyên năng lượng hạt nhân mà vẫn bảo đảm được độc lập công nghệ và an toàn của dân chúng thì Việt Nam phải sửa soạn nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực kỹ thuật chậm nhất từ hai chục năm trước, nghĩa là từ năm 1995. Vì đã không sửa soạn như vậy, cho tới ngày những dòng này đang được viết, những nhà lãnh đạo đã phải hoãn lại năm năm thời điểm sản xuất điện hạt nhân lần đầu tiên, nghĩa là tới năm 2020.

2. Sản xuất điện chỉ là một khâu của chu trình nhiên liệu hạt nhân. Trước đó có khâu làm giàu uranium và sau đó thì có khâu xử lý nhiên liệu đã bị phóng xạ. Chỉ có vài nước trên thế giới nắm được công nghiệp của hai khâu này. Những nước sản xuất điện hạt nhân khác đều phải chịu yêu sách của những nước đó. Khi quyết định sản xuất điện hạt nhân thì chính sách của Việt nam về hai khâu làm giàu uranium và xử lý nhiên liệu đã bị phóng xạ chưa thấy được nêu rõ. Với một vài lò phản ứng cung ứng non 10 % nhu cầu điện thì hai vấn đề này không quan trọng mấy. Nhưng, chỉ vài năm sau, với một phần điện hạt nhân đáng kể trong nguồn cung ứng năng lượng, độc lập chính trị của quốc gia Việt Nam sẽ bị đe dọa nếu không giải quyết ổn thỏa toàn bộ chu trình nhiên liệu hạt nhân.

Kinh nghiệm dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, những khó khăn khi khởi động nhà máy nhiệt điện Uông Bí mở rộng hay việc tắt một nhà máy nhiệt điện để bảo hành ngay giữa mùa khô cho thấy trình độ quản lý công nghiệp của cán bộ Việt Nam chưa cao mấy. Đọc báo mạng không thấy có chương trình đạo tạo cụ thể gì ngoài việc mời các công ty thiết kế nhà máy hạt nhân đến chào hàng và gọi đó là những khóa đào tạo của họ và tuyên bố của nhân dân hai xã tỉnh Ninh Thuận ủng hộ việc xây nhà máy trên xã họ.

3. Trừ khi Việt Nam đang tiến hành những chương trình đào tạo nghiêm chỉnh mà chúng tôi không được biết, kế hoạch rất khiêm tốn một lò phản ứng 1.000 MW sản xuất điện hạt nhân vào năm 2020 sẽ không thể thực hiện được và có nguy cơ gây ra một tai họa tương tự như ở Tchernobyl cách đây hai chục năm.

Cung ứng điện

Việt Nam có nguy cơ vốn đầu tư nước ngoài sẽ rút lui nếu không được bảo đảm cung ứng điện liên tục và với chất lượng tiêu chuẩn.

Cắt điện ở Việt Nam không còn là một đe dọa mà là một thực tế hàng ngày. Mặc dù công suất lắp đặt và sản lượng điện tăng mau gấp ba lần trung bình các nước Châu Á và Châu Đại Dương, nhu cầu điện không được hoàn toàn thỏa mãn. Từ mười năm nay nhu cầu điện tăng mau hơn là sản xuất tới 1,6 điểm phần trăm. Đây là một ngoại lệ nguy hiểm.

1. Người dân Việt Nam quen bị cắt điện. Như viết ở một phần trên, điện bị phung phí trong tiện nghi nhà ở. Cắt điện gia dụng chỉ gây phiền phức chứ không có ảnh hưởng kinh tế gì mấy. Ngoài những bệnh viện và những cơ sở quốc phòng, cắt điện ở những công sở, cũng không có ảnh hưởng kinh tế xã hội gì mấy. Ngược lại, cắt điện dùng trong sản xuất là một tai họa kinh tế chứ không chỉ là một thiếu hụt trong doanh thu của EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam).

Khi một cơ sở dịch vụ bị cắt điện thì làm giảm doanh thu cửa hàng của họ vì khách hàng sẽ đến ít hơn. Du khách nước ngoài sẽ ngại đến tiêu tiền, doanh nhân nước ngoài sẽ ngại đến tìm cơ hội làm ăn và tiếng tăm xấu về Việt Nam sẽ được quảng bá khắp nơi. Khi một cơ sở công nghiệp bị cắt điện trong một thời gian lâu thì chỉ có nước là ngưng sản xuất. Khi bị cắt điện bất chợt hay chu kỳ của dòng điện giảm xuống quá mức, dù chỉ trong một giây khắc, là những động cơ điện và những linh kiện điện tử bị hỏng. Những phiền hà đó gây thiệt hại lớn cho kinh tế.

2. Nhiều cơ sở dịch vụ và công nghiệp ở Việt Nam bây giờ có những ổ phát điện an toàn để đề phòng bị cắt điện. Nhưng những ổ phát điện an toàn chạy bằng những động cơ nhỏ tiêu thụ sản phẩm dầu, có hiệu suất năng lượng kém và ô nhiễm môi trường hơn là những tổ máy sản xuất điện lớn của mạng phân phối quốc gia. Trông cậy vào những ổ phát điện an toàn để ngành điện lực tiết kiệm đầu tư là một vi phạm đến phát triển bền vững và làm những doanh nhân Việt Nam cũng như doanh nhân nước ngoài không muốn đầu tư ở Việt Nam nữa.

3. Tình trạng không thể tăng nguồn cung ứng điện này còn ngăn cản Việt Nam khai triển những dự án cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Tỷ dụ dự án :

- Điện hoá ngành đường sắt sẽ không thể thực hiện được vì sẽ không có nguồn cung cấp điện,

- Những xí nghiệp không thể chuyển đổi công nghệ để hiện đại hóa vì chuyển đổi công nghệ thường đi song song với chuyển từ tiêu thụ năng lượng hóa thạch sang tiêu thụ điện.

PHẦN 2 – ĐỀ NGHỊ MỘT MÔ HÌNH CHIẾN LƯỢC NĂNG LƯỢNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

An ninh năng lượng

Những năng lượng hoá thạch

Từ thập niên 1970 cho tới nay nhiều chuyên gia nổi tiếng đã định thời điểm những nguồn năng lượng hoá thạch sẽ cạn hết. Thời điểm đó là ba bốn chục năm tới. Nhưng, mỗi khi giá dầu thô tăng lại có người tính lại thời điểm đó và vẫn thấy thời hạn sẽ hết năng lượng hoá thạch là ba bốn chục năm nữa. Dù những dự báo đó đúng hay sai, thời hạn ba bốn chục năm đủ lâu để Việt Nam tiếp tục có một chiến lược bảo đảm nguồn cung ứng những loại năng lượng này.

1. Việt Nam vẫn cần phải đa dạng hoá nguồn cung ứng bằng cách mua của nước ngoài một số quyền được mua năng lượng dài hạn, quyền khảo sát địa chất và quyền khai thác một số mỏ ở nước ngoài. Để chia sẻ chi phí và rủi ro thất bại, thường có một tập đoàn gồm bởi nhiều đối tác tài trợ chung khảo sát của một vùng và chia nhau trữ lượng của mỏ đã khám phá được. Việt Nam đã tham gia với các nước bạn và các xí nghiệp siêu quốc gia khảo sát và khai thác những mỏ năng lượng hoá thạch ở những nước khác và đã có kết quả đầu tiên.

Chúng tôi đề nghị Việt nam tăng cường hợp tác đa phương đó tới tối đa khả năng thương lượng của mình. Để làm được việc này một cách hữu hiệu và có hệ thống, chúng tôi đề nghị thành lập một đội ngũ cán bộ am hiểu tình hình chiến lược năng lượng thế giới. Đội ngũ này có chức năng cố vấn chính phủ về những cơ hội giao thương với những đối tác nước ngoài để củng cố tiềm năng cung ứng năng lượng hoá thạch một cách bền vững. Ở nhiều nước đội ngũ cán bộ này tùy thuộc Bộ Công nghiệp hay Bộ Năng lượng. Chúng tôi đề nghị đội ngũ Việt Nam thuộc Bộ Ngoại giao hay Thủ tướng.

2. Năm 2020, Việt Nam sẽ là một quốc gia công nghiệp và kết cấu tiêu thụ năng lượng sẽ không còn là một ngoại lệ như hiện nay. Xu hướng về năng lượng của các ngành công nghiệp là chuyển sang sử dụng điện nhiều hơn và điện sẽ được sản xuất bằng than và năng lượng hạt nhân nhiều hơn. Than có nhiều trên thế gới. Than là nguồn năng lượng hoá thạch sẽ cạn sau khi dầu thô và khí tự nhiên không còn nữa. Nhưng than là loại năng lượng ô nhiễm nhiều. Ngoài việc cung ứng chất đốt cho những nhà máy nhiệt điện, than sẽ là nguyên liệu để sản xuất những nhiên liệu lỏng thay thế cho sản phẩm dầu và nhiên liệu khí thay thế cho khí tự nhiên. Việt Nam sẽ phải dùng đến những nhiên liệu này vì có trữ lượng than quan trọng.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia tích cực vào những chương trình quốc tế nghiên cứu triển khai những công nghệ liên quan đến than và hạt nhân.

3. Như mọi quốc gia đang ngoi lên, Việt Nam cấp bách phải xây dựng hạ tầng và bị những xí nghiệp các nước giàu cám dỗ mua lại những thiết bị đã qua sử dụng của họ. So với mua mới, mua lại một thiết bị đã qua sử dụng thì rẻ hơn và, nhất là, tiết kiệm được thời gian chờ thiết bị được thiết kế và chế tạo. Nhưng, đặc biệt về những lò hơi và lò đốt, những thiết bị đã qua sử dụng có hiệu suất kém và ô nhiễm môi trường tự nhiên nhiều hơn là thiết bị mới.

Chúng tôi đề nghị triệt để không mua lại những lò hơi, lò đốt, tuabin khí và những thiết bị bảo vệ môi trường đã qua sử dụng. Những thiết bị sau lò hơi (bộ ngưng, bộ phát điện, bộ chuyển áp,...) cũ có thể mua nếu có chứng minh hãy còn chạy tốt và giá mua vừa phải.

Năng lượng hạt nhân

Chúng tôi đề nghị Việt Nam áp dụng một kế hoạch tương tự như kế hoạch PEON của Pháp.

1. Ý kiến của những vị lãnh đạo là năm 2020 sẽ đưa vào hoạt động một hay hai nhà máy, tổng cộng một tới bốn lò phản ứng. Với giả thuyết nhu cầu điện tăng 7,8 % mỗi năm trình bày ở trên thì năm 2020 nhu cầu điện sẽ là 158,3 TWh và phải sản xuất thêm 11,5 TWh so với năm trước. Lượng điện bội thêm này sẽ làm cho một lò hơi hạt nhân 1.500 MW có thể sinh lợi. Ba năm sau đó có thể lắp đặt thêm một lò hơi như thế mỗi năm. Để có điện hạt nhân năm 2020 thì phải đã bắt đầu xây nhà máy năm 2015 và đã bắt đầu đào tạo nhân lực kỹ thuật chậm nhất từ năm 2005. Cho tới nay đọc báo trên mạng chỉ thấy Việt Nam mời những công ty thiết kế nhà máy hạt nhân các nước đến trình bày công nghệ của họ và coi đó là đào tạo nhân lực.

Chúng tôi đề nghị khẩn cấp tạo ra một văn hoá công nghiệp trong mọi tầng lớp nhân dân và đào tạo nhân lực kỹ thuật để có thể xây dựng những nhà máy điện hạt nhân kể từ năm 2025 và đưa vào hoạt động kể từ năm 2030. Dù để phát triển ngành hạt nhân hay mọi ngành kinh tế kỹ thuật nào chăng nữa, Việt Nam cũng không thể tiết kiệm được công lao và chi phí nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực kỹ thuật bản xứ. Mua từ những tập đoàn siêu quốc gia những nhà máy theo dạng chìa khoá trao tay chắc chắn sẽ cho phép có được nhà máy điện hạt nhân và sản lượng điện của nhà máy đó. Nhưng làm như thế không phải là một phương pháp hữu hiệu để vừa dẫn nước Việt Nam vào kỷ nguyên hạt nhân vừa duy trì độc lập quốc gia.

2. Xung quanh mọi nhà máy lớn như nhà máy hoá chất, nhà máy lọc dầu, đập thuỷ lợi,... hay nhà máy hạt nhân đều có rủi ro tai nạn công nghiệp. Mọi chính quyền địa phường gần những nhà máy đó cũng đều phải :

- Có sẵn những quy trình bảo vệ người dân khi có sự cố : quản thúc trong nhà, di tản có trật tự, cứu trợ nạn nhân,...

- Có chương trình thao luyện thường xuyên những lực lượng cấp cứu,

- Và thường xuyên tổ chức những đợt tuyên truyền cảnh báo dân chúng về rủi ro của nhà máy và cách cư xử khi có sự cố.

Nếu thiết kế, xây dựng và vận hành đúng thì một nhà máy hạt nhân nguy hiểm không hơn không kém gì một nhà máy lớn khác. Nhưng, cho tới nay, chúng tôi chưa có thông tin gì về những việc này cả.

3. Vấn đề an ninh nguồn cung ứng năng lượng hạt nhân nằm ở khâu làm giàu và sản xuất thanh nhiên liệu cho lò phản ứng. Hai khâu này bị những cường quốc hạt nhân trấn áp. Nhưng những nước khác vẫn có thể xây dựng một công nghiệp nhiên liệu hạt nhân miễn là tôn trọng những quy định của hiệp ước NPT.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam xây một nhà máy làm giàu uranium và một nhà máy sản xuất thanh nhiên liệu chung với các thành viên khác của khối ASEAN và dưới sự kiểm soát chặt chẽ của IAEA. Liên doanh này sẽ giảm "giá vé vào cửa" công nghệ hạt nhân của mỗi thành viên và sẽ trấn an thế giới uranium đã được làm giàu sẽ không bị biến thủ để chế tạo vũ khí hạt nhân. Dù sao muốn làm một quả bom nguyên tử thì phải có uranium đã được làm giàu đến ít nhất 90 phần trăm U 235. Một nhà máy được thiết kế để làm giàu uranium đến 3/5 phần trăm U 235 không thể nào là một đe dọa quân sự được. Với uy tín quốc tế hiện nay của mình, Việt Nam nên chủ động đề xuất dự án này trước khi khởi công xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Chúng tôi không đi sâu hơn nữa vào những lợi thế ngoại giao của dự án này.

4. Xử lý những thanh nhiên liệu đã được phóng xạ không cấp bách mấy vì khối lượng của chúng nhỏ và vì chưa ai biết xử lý những vật liệu này một cách ổn thỏa. Ngoài ra, vào thập niên 2030 dự báo Diễn đàn Generation IV sẽ khai triển xong những hệ thống mới sản xuất năng lượng hạt nhân. Những kiểu lò hơi đang được Diễn đàn Generation IV nghiên cứu triển khai sẽ thay đổi một cách đáng kể những thông số kính tế kỹ thuật về xử lý nhiên liệu đã được phóng xạ.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam tạm thời bỏ sang một bên vấn đề xử lý những thanh nhiên liệu đã được phóng xạ và xin tham gia vào Diễn đàn Generation IV.

Cung ứng điện

1. Điện là một sản phẩm công nghiệp không thể tích trữ được. Dự đoán nhu cầu về lượng điện trong một khoảng cách thời gian thì chưa đủ vì nhu cầu về công suất ở một thời điểm biến đổi từ giây khắc. Tối ưu hoá một hệ thống sản xuất và phân phối điện là một việc rất phức tạp. Tối ưu hoá mỗi lúc một hệ thống như vậy lại còn phức tạp hơn.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam thiết lập một mô hình toán học tối ưu hoá việc thiết kế và điều hành hệ thống sản xuất và phân phối điện của mình.

2. Điện là một nhu yếu phẩm nên phải do Nhà nước độc quyền quản lý. Nhà nước quản lý cũng có nghĩa là Nhà nước có thể gia công sản xuất một phần lớn điện cho tư nhân hay các xí nghiệp nước ngoài. Chúng tôi đồng ý với chủ chương của chính phủ khi thành lập "Cục Điều tiết Điện lực để cung cấp điện ổn định, thu hút đầu tư rộng rãi vào ngành điện, nhất là đầu tư phát triển nguồn điện, giá điện phản ánh đúng chi phí; khuyến khích cạnh tranh nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh trong ngành điện".

Chúng tôi đề nghị khách hàng cuối cùng (end user) được chia làm hai khối : khối cá thể (điện tiêu dùng) và khối sản xuất. Mỗi khối mua điện theo những nguyên tắc sau đây :

- Phân phối và bán điện tiêu dùng cho cá thể phải là độc quyền của một xí nghiệp quốc doanh tuân theo những chỉ thị của chính phủ về giá biểu và chất lượng dịch vụ. Xí nghiệp đó có thể là một công ty con của EVN và chỉ có xí nghiệp đó mới có quyền mua điện để bán lại cho tư nhân.

- Những đối tác thuộc khối sản xuất có thể mua điện của bất cứ xí nghiệp sản xuất điện nào. Những điều kiện mua điện sẽ do hai bên tự do thỏa thuận.

3. Chính phủ đã có một biểu giá phản ảnh chính sách chia sẻ thu nhập quốc gia của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa : những hộ mua ít điện thì trả dưới giá thành và sai biệt sẽ do những hộ tiêu thụ nhiều điện chịu với giá điện cao hơn. Nhưng biểu giá hiện nay của xí nghiệp quốc doanh EVN phức tạp và không có tính cách giáo dục khuyến khích tiết kiệm điện.

Đối với khối tư nhân, chúng tôi đề nghị EVN :

- Đồng nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia biểu giá điện,

- Giảm số bậc thang trong biểu giá,

- Nhưng tăng cường thêm sai biệt về giá điện giữa những hộ tiêu thụ ít điện (trên nguyên tắc là những hộ nghèo) và những hộ tiêu thụ nhiều điện (trên nguyên tắc là những hộ có khả năng phung phí điện).

Đối với khối sản xuất, chúng tôi đề nghị EVN :

- Ngưng phân loại khách hàng không thuộc diện "sinh hoạt bậc thang" của giá biểu hiện hành và hợp nhất những đối tác này vào khối sản xuất,

- Biểu giá cần có một chi phí cố định tùy ở điện áp thể hiện chi phí đường dây tải điện từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng,

- Lập trong biểu giá hai bực thang "mùa khô" và "mùa mưa" với định nghĩa thời điểm của hai mùa đó tùy khí hậu ở điểm tiêu thụ điện và lồng vào mỗi bực thang đó những bực thang con tính theo thời điểm cung cấp điện (giờ thường, giờ cao điểm và giờ rỗi) hiện có trong biểu giá.

Những nguồn năng lượng tái tạo

Ngoài thủy năng, tiềm năng những nguồn năng lượng tái tạo khác và hiệu ứng của chúng đến xã hội và môi trường chưa được Việt Nam xác định.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam nghiên cứu kỹ những vấn đề này trước khi quyết định khai triển chúng một cách đại trà.

Năng lượng sinh học

1. Nông nghiệp Việt Nam mạnh nên sinh ra nhiều phế liệu hữu cơ. Những phế liệu này ủ trong những lò phản ứng khí sinh học sẽ sinh ra khí methan có thể dùng làm nguồn năng lượng các miền đồng quê. Trường đại học Đà nẵng và một số Tổ chức từ thiện phi chính phủ hoạt động tại Việt nam đã thiết kế và thử nghiệm thành công những lò phản ứng này. Rác đô thị chôn ở một hố rác được thiết kế thích nghi cũng có thể là nguồn khí sinh học hỗ trợ cho mạng phân phối khí đốt đô thị.

Chúng tôi đề nghị :

- Vườn ươm xí nghiệp trường Đại học Đà Nẵng thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một lò phản ứng khí sinh học tiêu chuẩn cho một hộ nông thôn trung bình,

- Các thành phố 100.000 nhân khẩu xử lý rác trong những hố rác có thể sản xuất khí sinh học.

2. Việt Nam đã nhiều lần chế tạo thành công những lò đốt phế liệu của nông nghiệp : bã mía, trấu, rơm,... Nhưng, ngoài những nhà máy đường đốt bã mía, những lò đốt này không có quy mô lớn và chỉ có tính cách làm để thử nghiệm.

Chúng tôi đề nghị một trường đại học hay một trung tâm nghiên cứu thiết kế và thử nghiệm một kiểu mẫu lò hơi tiêu chuẩn có công suất chừng 10 MW. Lò hơi này sẽ được thiết kế chủ yếu chạy bằng dầu và, khi có nguồn cung ứng thì chạy thêm bằng bất cứ một chất đốt rắn nào. Trong khuôn khổ kế hoạch đô thị hoá công nghiệp hoá nông thôn lò hơi sẽ đặt ở những khu công nghiệp địa phương để thanh toán vấn đề phế liệu nông nghiệp và để sản xuất điện cho những nhà máy của khu công nghiệp và những làng xã lân cận.

Chúng tôi cũng đề nghị những thành phố hơn 500.000 nhân khẩu đốt rác đô thị trong những nhà máy đồng phát sinh điện và hơi nước. Điện và hơi nước được sản xuất này sẽ tham gia cung ứng năng lượng sinh hoạt của thành phố.

3. Những loại năng lượng sinh học khác cần được nghiên cứu sâu rộng và trong một thời gian lâu để hiểu rõ tiềm năng và hậu quả của chúng đến xã hội và môi trường tự nhiên.

Trong khi chờ đợi, chúng tôi can ngăn chính phủ đừng vội vã quyết định gì ngoài những quyết định nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và nghiên cứu khả thi.

Thủy năng

1. Tỷ lệ thủy điện trong kết cấu sản xuất điện của Việt Nam quá cao để có thể ổn định cung ứng điện suốt năm và trên toàn lãnh thổ quốc gia. Những công trình thủy điện xây lâu và tốn nhiều vốn ban đầu hơn là những nhà máy nhiệt điện. Việt Nam đang thiếu điện và thiếu vốn. Vậy ưu tiên là phải xây những nhà máy nhiệt điện chứ không phải là xây những nhà máy thủy điện.

Cho tới khi tỷ lệ thủy điện xuống tới dưới một phần tư nhu cầu, chúng tôi đề nghị :

- Hủy bỏ những dự án nhà máy thủy điện công suất trên 10 MW nếu không có nhu cầu chính là chống lũ hay cung cấp nước cho nông nghiệp,

- Đình chỉ những công trình chưa khởi công,

- Tạm thời đình hoãn những công trình đã khởi công nhưng, vì lý do này lý do khác, chưa tiến độ mấy hay tiến triển quá chậm.

Tài chính ngắn hạn được giải phóng sẽ dùng để xây nhà máy nhiệt điện.

2. Việt Nam và các nước lân cận có nhiều địa điểm thuận lợi để lắp đặt những máy thủy điện nhỏ và rất nhỏ. Cho tới nay, người dân có nhu cầu điện phải tự chế những bộ thủy điện gồm một ống dẫn nước, một tuabin và một máy phát điện. Vì tự chế và không được thiết kế có quy củ, những bộ thủy điện này có hiệu suất thấp và chế tạo chúng tốn nhiều công và vật liệu.

Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một số bộ thủy điện tiêu chuẩn ở những bậc thang công suất dưới 10 MW ( tỷ dụ 10 MW, 5 MW, 1.000 kW, 500 kW, 250 kW, 100 kW, 50 kW, 10 kW ). Những tư nhân hay địa phương có nhu cầu chỉ cần phối hợp những bộ tiêu chuẩn đó để đạt công suất của công trình muốn xây. Giá thành, suy ra giá bán, một bộ máy tiêu chuẩn rẻ hơn là một bộ máy thiết kế đặc biệt cho một công trình vì :

- Công lao và tiền của để thiết kế đã được khấu hao trên nhiều đơn vị,

- Những bộ máy bán chạy nhất có thể được chế tạo trước để khách hàng khỏi phải chờ lâu,

- Và nhân lực chế tạo bộ máy sẽ hưởng định luật hiệu ứng tay nghề nên có năng suất cao, giá thành thấp và chất lượng cao.

Năng lượng mặt trời

1. Ở Việt Nam, năng lượng mặt trời ở dạng nhiệt, những máy nước nóng không mấy phổ biến như ở các nước ven bờ Địa Trung Hải. Có vài xí nghiệp bán những bản hấp thụ ánh sáng mặt trời với những ống rỗng của Đức. Những máy nước nóng đó có hiệu suất cao hơn là những bản mặt trời tự chế nhưng đắt gấp bội. Đức là một nước lạnh, họ cần đến những ống rỗng để mùa đông giữ hiệu suất ở một mức có thể chấp nhận được. Việt Nam là xứ nóng nên sai biệt hiệu suất giữa hai loại bản mặt trời tự chế và nhập từ Đức không đáng sai biệt về giá bán.

Chúng tôi đề nghị những xí nghiệp đó ngưng nhập những máy nước nóng và thiết kế những bản mặt trời giản dị để bán cho người tiêu dùng. Một trường đại học có thể đứng ra làm phòng thí nghiệm đo hiệu suất những bản mặt trời và phát giấy chứng nhận năng suất của những máy nước nóng.

2. Về năng lượng mặt trời ở dạng quang điện, cũng có vài nơi ở Việt Nam, đặc biệt trên những ghe thuyền có người cư ngụ, chưa liên kết với mạng phân phối điện quốc gia dùng bản quang điện để có điện nghe đài hay xem truyền hình. Nhưng, so với sức mua điện của người Việt Nam, quang điện vần còn là một thiết bị vẫn còn tốn kém.

Chúng tôi đề nghị thay thế những bản quang điện bằng những tuabin vi thủy điện hay những quạt phong điện loại nhỏ. Những thiết bị này có thể tự chế. Nhưng, tốt hơn, vườn ươm của một trường đại học có thể đứng ra thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường những bộ vi thủy điện và những quạt phong điện tiêu chuẩn có công suất dưới 10 kW.

Chúng tôi cũng đề nghị vườn ươm một trường đại học nghiên cứu thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một hệ thống câu điện an toàn từ mạng điện quốc gia đến những ghe thuyền.

3. Nhiều chính phủ những nước công nghệ tiên tiến khuyến khích và trợ cấp tư nhân đầu tư vào những nhà có tổng kết năng lượng dương. Những nhà này thường được trang bị bới những bản quang điện gắn trên mái nhà. Mục đích của trợ cấp này là để những xí nghiệp nước họ tích lũy diện tích những bản quang điện đã được sản xuất và, nhờ hiệu ứng tay nghề, giảm giá thành của quang điện ở nước họ xuống dưới giá mua từ mạng phân phối điện quốc gia. Thị trường quốc tế những bản quang điện này rất lớn.

Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp sản xuất những tế bào quang điện và chế tạo để xuất khẩu những bản quang điện. Mặc dù chưa có thị trường quốc nội, sản xuất để xuất khẩu sẽ giúp xí nghiệp Việt Nam tích lũy diện tích những bản quang điện đã được sản xuất và có ưu thế về giá khi quang điện có thể đua tranh được với điện cổ điển.

4. Trong khi chờ quang điện có thể đua tranh được với điện cổ điển, quang điện tiện lợi khi cần cung ứng một lượng điện rất nhỏ và những sản phẩm cần đến rất ít điện. Sản xuất những sản phẩm này không cần đến công nghệ quá cao (xin đọc phần II bài “Năng lượng và phát triển bền vững” của chúng tôi). Về tổng số công suất điện thì không có là bao nhiêu, nhưng về tổng số lượng sản phẩm có gắn một tế bào quang điện thì thị trường đa dạng và rất lớn.

Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền địa phương thành lập những xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm phải dùng pin điện hay cần kéo dây điện để cung ứng một lượng điện rất nhỏ như là đồng hồ, máy tính bỏ túy, máy radio, máy truyền hình nhỏ, đèn điện chiếu sáng vườn cảnh, trạm tín hiệu, cọc tiêu, rờle viễn thông, máy tính tiền đỗ xe, máy phát tiền,…

Năng lượng gió

1. Chúng tôi được biết tỉnh Bình Thuận đang khai triển một trại phong điện11. Đây là một điều đáng tiếc vì một quạt phong điện sản xuất điện không đều đặn và do đó có khả năng làm cho mạng phân phối điện quốc gia mất ổn định.

Chúng tôi đề nghị tách ly khỏi mạng phân phối điện quốc gia những quạt phong điện và dùng chúng để bơm nước vào những hồ tích nước dùng cho nông nghiệp, du lịch, giải trí và sản xuất điện cho mạng phân phối điện quốc gia vào những giờ cao điểm.

2. Ngược lại, ở những hải đảo có cộng đồng ít cư dân thì những quạt phong điện nhỏ hay trung bình sẽ giảm nhu cầu nhiên liệu của ổ phát điện chạy bằng dầu. Ngoài ra, ở ngoài khơi, những quạt phong điện cũng có thể cung cấp điện cho những trạm tín hiệu, cọc tiêu và rờle viễn thông.

Chúng tôi đề nghị một trường đại học nghiên cứu chế độ gió trên các hải đảo Việt Nam và phương pháp liên kết quạt phong điện với những ổ phát điện và bình acquy. Mục đích của những công trình nghiên cứu này là tìm phương pháp tối ưu cung ứng điện cho cư dân những hải đảo.

Chúng tôi cũng đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một số quạt phong điện tiêu chuẩn ở một bậc thang công suất dưới 10 kW (tỷ dụ 10 kW, 5 kW, 1.000 W, 500 W, 250 W, 100 W, 50 W, 10 W). Cũng như với quang điện, về tổng số công suất điện thì không có là bao nhiêu, nhưng về tổng số lượng sản phẩm thì thị trường đa dạng và rất lớn.

3. Nhiều nước Âu Châu và Bắc Mỹ đang lắp đặt những trại phong điện. Thị trường này rất lớn. Chế tạo những cột quạt phong điện không khó lắm, tương tự như chế tạo những trụ cầu và trụ dàn khoan mỏ dầu ở ngoài khơi mà Việt Nam đã biết chế tạo và đã xuất khẩu. Hiện nay một xí nghiệp Đức đang thương lượng xây dựng một nhà máy quạt phong điện ở Việt Nam.

Chúng tôi đề nghị xí nghiệp hợp doanh này không giới hạn chức năng ở khâu lắp ráp những quạt phong điện mà có thể :

- Thiết kế và lắp ráp toàn bộ một quạt phong điện,

- Gửi kíp nhân công đi xây những trại phong điện ở nước ngoài dưới sự lãnh đạo của một kỹ sư dự án trưởng Việt Nam.

Những năng lượng tái tạo khác

Tiềm năng năng lượng biển và năng lượng từ lòng đất ở Việt Nam có thể rất lớn và đáng được chú ý đến. Nhưng những cơ sở để xác nhận điều này Việt Nam chưa có.

Cũng như với những năng lượng sinh học, chúng tôi đề nghị các trường đại học và trung tâm nghiên cứu địa chất khảo sát thêm và nếu thấy có triển vọng thì đánh giá kỹ hiệu ứng xã hội, kinh tế và kỹ thuật trước khi chính quyền địa phương quyết định khai thác một loại năng lượng sinh học hay không.

Phát triển kinh tế bền vững

Một định luật quản lý Nhà Nước là "biểu thuế thể hiện chính sách kinh tế của chính phủ và biểu giá một dịch vụ hay sản phẩm cốt yếu thể hiện chi phí sản xuất". Nếu giảm thuế hay trợ giá những sản phẩm cốt yếu như là lương thực hay năng lượng thì sẽ khuyến khích người dân và xí nghiệp lãng phí tài nguyên. Với giá năng lượng cao xí nghiệp sẽ được khuyến khích hiện đại hoá những quy trình sản xuất để tiết kiệm năng lượng. Dù sao giá thực tế những sản phẩm cốt yếu sẽ không bao giờ giảm và ngân sách dành cho những hỗ trợ đó sẽ sớm cạn. Kinh nghiệm các nước cho thấy khi chính phủ không thể tiếp tục hỗ trợ được nữa thì sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế và xáo trộn xã hội.

Chúng tôi đề nghị chính phủ giữ thuế đánh trên năng lượng ở mức cao và không trợ giá năng lượng cho một đối tác kinh tế xã hội nào. Thay vào đó, chính phủ có nhiều cách can thiệp khác :

- Đối với thành phần xã hội có đời sống khó khăn thì phát học bổng một cách hào hiệp, bảo hiểm y tế đại trà, xây chung cư giá rẻ, trợ giá giao thông công cộng,...

- Đối với một ngành nông nghiệp hay công nghiệp có vấn đề thì tăng cường đào tạo nhân lực, tài trợ phiêu lưu (venture financing) và tư vấn xuất khẩu, tài trợ phiêu lưu khai triển sáng kiến, tài trợ đầu tư vào hiện đại hoá những phương tiện sản xuất, lập quỹ ổn định giá những sản phẩm thu hoạch theo vụ (tỷ dụ nông sản) hay tùy thời tiết (tỷ dụ ngư sản),...

Những hình thức hỗ trợ này sẽ giúp người dân duy trì sức mua và các xí nghiệp giảm giá thành. Đây là hai điều kiện để vượt qua một khủng hoảng kinh tế một cách lành mạnh.

Giao thông vận tải

Những xa lộ cao tốc chiếm nhiều đất và ô tô chạy trên đó tiêu thụ nhiều dầu và phun ra nhiều khí có hiệu ứng nhà kính. Những xe vận tải nặng chạy trên những đường cao tốc sẽ không bao giờ đáp ứng được nhu cầu luân chuyển hàng hoá của một quốc gia công nghiệp. Những xa lộ nội thành sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề ùn tắc giao thông đô thị. Vận tải bằng đường sắt, đường sông và đường biển chiếm ít đất lộ giới, tiêu thụ ít năng lượng và có trọng tải lớn hơn là bằng đường bộ. Chuyên chỏ công cộng hành khách trong những cụm đô thị tiêu thụ ít năng lượng hơn và ô nhiễm môi trường ít hơn là những phương tiện di chuyển cơ giới cá nhân khác.

Chúng đề nghị :

- Ưu tiên khai triển mạng đường sắt, đường sông và đường biển để giảm nhu cầu giao thông vận tải bằng đường bộ,

- Liên kết những khu công nghiệp với mạng đường sắt để gia tăng tiềm năng vận chuyển hàng hoá giữa những khu công nghiệp với nhau và giữa những khu công nghiệp và các bến cảng,

- Nếu có thể, đặt những khu công nghiệp ở ven sông hay ven biển để tận dụng những phương tiện vận tải bằng đường thủy.

Công nghiệp

1. Ba nguyên tắc của chiến lược quân sự cũng như chiến lược kinh doanh là tập trung lực lượng, giữ thế chủ động và tiết kiệm tiềm năng.

Về tập trung lực lượng, chúng tôi đề nghị :

- Những tập đoàn quốc doanh chuyên về năng lượng bán lại cho SCIC (Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước) những công ty con không dính dáng gì đến năng lượng (viễn thông, cao ốc, ngân hàng,...),

- Sau khi cổ phần hoá những hợp tác xã và những xí nghiệp quốc doanh xây dựng cơ sở, sản xuất và phân phối năng lượng, SCIC kết hợp, tùy theo ngành chuyên môn, vào một trong ba tập đoàn lớn chuyên về than (Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, TKVN), dầu khí (Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam, PVN), sản xuất và phân phối điện (Tập đoàn Điện lực Việt Nam, EVN),

- Nếu niêm yết trên thị trường chứng khoán ba tập đoàn này thì SCIC luôn luôn giữ tối thiểu 51 % cổ phiếu để có thể áp đặt chính sách năng lượng của chính phủ,

TKVN và PVN chỉ có quyền bán chất đốt cho EVN chứ không có quyền xây dựng cơ sở, sản xuất và phân phối điện.

Về giữ thế chủ động, chúng tôi đề nghị mỗi khu công nghiệp trên 200 ha phải có riêng một nhà máy nhiệt điện, có đủ công suất để đáp ứng nhu cầu của khu công nghiệp và những khu đô thị lân cận và bắt buộc liên kết với mạng phân phối điện quốc gia.

Về tiết kiệm tiềm năng, chúng tôi đề nghị nhà máy nhiệt điện của những khu công nghiệp :

- đốt than và những chất đốt rắn khác như là rác đô thị, phế liệu công nghiệp, phế liệu nông nghiệp, củi gỗ của ngành khai khẩn rừng,...

- xử lý đúng tiêu chuẩn vệ sinh khói và những phế liệu sinh ra từ việc đốt những vật liệu đó,

- có tuabin và bộ ngưng đã được thiết kế để cho nhà máy có thể chạy theo chu trình kết hợp.

2. Vì định luật hiệu suất Carnot, một nhà máy nhiệt điện chỉ biến đổi thành điện có 35 đến tối đa 50 phần trăm năng lượng khả dụng. Phần còn lại bị thải ra thiên nhiên qua bộ ngưng.

Chúng tôi đề nghị :

- Nhà máy nhiệt điện xây những ống dẫn hơi nước nén từ bộ ngưng đến các đô thị và các khu công nghiệp lân cận để bán hơi nước nén cho những đối tác có nhu cầu,

- Những khu đô thị gần một nhà máy nhiệt điện có một mạng phân phối để dẫn hơi nước nén đến từng nhà tư nhân.

3. Những thiết bị công nghiệp có hiệu suất cao, tiêu thụ ít năng lượng và ô nhiễm ít môi trường nếu được bảo trì như mới.

Chúng tôi đề nghị :

- Các xí nghiệp có chính sách bảo trì sản xuất cục bộ (TMP, Total Productive Maintenance),

- Tư nhân và chính quyền địa phương thành lập những xí nghiệp phụ trợ chuyên về bảo trì những thiết bị công nghiệp.

4. Như viết ở một phần trên, những cơ sở công nghiệp nặng, nhà máy lọc dầu, nhà máy phân bón, các nhà máy hoá chất,… đều có rủi ro tai nạn như một đập thủy lợi hay một nhà máy hạt nhân.

Chúng tôi đề nghị Quốc hội thông qua một bộ luật về quản lý tai nạn công nghiệp quy định trách nhiệm và quyền hành của mỗi cơ quan Nhà Nước về phòng ngừa rủi ro công nghiệp và ứng phó khi có tai nạn.

Chúng tôi cũng đề nghị chính phủ lập :

- Một bộ tiêu chuẩn bảo đảm an toàn và kiểm tra an toàn những cơ sở công nghiệp,

- Một bộ chương trình thao luyện thường xuyên những lực lượng cấp cứu,

- một bộ quy trình tuyên truyền về rủi ro công nghiệp và những phương cách ứng xử khi có tai nạn.

5. Quy ra giá trị gia tăng thì công nghiệp nặng tiêu thụ nhiều năng lượng và ô nhiễm môi trường nhiều hơn là công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Nhưng, trong quá trình phát triển kinh tế, Việt nam phải khai triển những công nghiệp nặng để tránh khỏi phải nhập khẩu bán thành phẩm dùng trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến.

Để giảm thiểu nhu cầu năng lượng và những vi phạm đến môi trường, chúng tôi đề nghị chỉ xây dựng những cơ sở công nghiệp nặng có năng suất đủ để đáp ứng những nhu cầu quốc nội. Như vậy có nghĩa là Việt Nam sản xuất đủ phân bón, xi măng, gang thép, bán thành phẩm kim loại,… để đáp ứng tất cả nhu cầu quốc nội của nông nghiệp, ngành xây dựng và các ngành công nghiệp. Đặc biệt chỉ nên xây đủ năng suất lọc dầu để cung ứng nhu cầu quốc nội trung bình về nhiên liệu và hoá chất. Những bất cập của thị trường sẽ được điều chỉnh trên thị trường quốc tế : nhập khẩu khi thiếu và xuất khẩu khi thừa. Những năng suất công nghiệp nặng vượt hơn nhu cầu quốc nội là những nguồn nhập khẩu nguyên liệu và ô nhiễm môi trường quá mức.

Tiện nghi nhà ở

1. Vì Việt Nam vẫn còn là một nước lạc hậu nên củi gỗ và những chất đốt rắn khác là nguồn năng lượng lớn nhất. Tính trạng này uy hiếp môi trường tự nhiên, đặc biệt sinh ra nạn phá rừng.

Chúng tôi đề nghị PVN khai triển một mạng phân phối những bình gas gia dụng đến tất cả các xã, kể cả những những xã vùng xa hẻo lánh. So với mạng phân phối điện của EVN thì xây dựng một mang phân phối những bình gas gia dụng rẻ hơn và có thể được thực hiện trong một thời gian ngắn hơn nhờ PVN có thể dựa trên những kênh phân phối bán lẻ.

2. Những cao ốc phải có thang máy và ban ngày bị mặt trời hâm nóng mà lại không thể mở cửa sổ. Những nhà loại đó tiêu thụ nhiều năng lượng để chạy thang máy và điều hòa không khí.

Chúng tôi đề nghị chỉnh trang đô thị bằng những khu nhà cao tối đa hai ba tầng. Những khu đô thị được liên kết với nhau bằng những trục giao thông rộng lớn. Nhưng những khu nhà chỉ cách nhau bằng ngõ hẻm cấm xe ô tô và đủ rộng để một xe cấp cứu có thể ra vào khi cần thiết. Như thế, nhà này che nắng cho nhà kia. Xung quanh những khu nhà có cây cao tạo ra bóng mát. Những kiến trúc sư nên tìm nguồn cảm hứng ở những nhà cổ truyền Việt Nam và những đô thị các nước ven bờ Địa Trung Hải.

3. Những nhà không được cách nhiệt sẽ nóng và không khí bên trong phải được làm lạnh thì mới ở được. Những máy điều hòa không khí cá nhân có hiệu suất kém và, cho tới này, chỉ có thể chạy bằng điện. Những máy nước nóng cá nhân cũng chỉ có thể chạy bằng điện hay bằng khí đốt.

Chúng tôi đề nghị :

- Chính phủ ban hành những tiêu chuẩn cách nhiệt cho các văn phòng, trung tâm thương mại và nhà ở,

- Chính quyền địa phương chỉ cho phép xây nhà nếu chủ đầu tư chứng minh nhà sẽ được cách nhiệt đúng tiêu chuẩn,

- Nếu gần một nhà máy nhiệt điện thì ưu tiên dùng hơi nước nén của nhà máy để đun nước sinh hoạt và điều hòa không khí theo chu trình hấp thụ.

- Chính quyền địa phương chỉ cho phép xây những nhà hai tầng trở lên nếu có phương án đun nước nóng sinh hoạt bằng ánh sáng mặt trời hay bằng hơi nước nén của một nhà máy nhiệt điện,

Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế

Những vấn đề nêu trên có thể được coi là liên hệ đến nhiều nước khác. Nhưng chúng đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của kinh tế Việt Nam. Vì thế Việt Nam không nên chờ có trợ giúp của nước ngoài mới bắt đầu tìm giải pháp cho những vấn đề của mình. Ở những phần trên, chúng tôi đã đề nghị nhiều cơ hội kinh doanh liên hệ đến năng lượng. Ở phần này chúng tôi sẽ đề nghị một số đề tài nghiên cứu triển khai Việt Nam có thể tiến hành một mình hay trong khuôn khổ hợp tác quốc tế.

1. Tạp chí Hoạt động Khoa học, trích dẫn Ngân hàng Thế giới, nêu năng lượng gió ở Việt Nam có tiềm năng công suất 513 360 MW, nhiều hơn 200 lần công suất của Thuỷ điện Sơn La, hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Một số báo trong nước đăng tin bể than tỉnh Hưng Yên có trữ lượng 210 tỷ tấn than. Theo WEC thì trữ lượng than đủ loại của cả thế giới chỉ có 847 tỷ tấn và sản lượng năng lượng gió của cả thế giới cũng chỉ là 106 TWh mỗi năm. Những sai biệt lớn giữa những số liệu quốc tế và thông tin của báo chí Việt Nam không được cải chính cho thấy Việt Nam chưa nắm được tất cả những số liệu cần thiết để thiết kế một chiến lược năng lượng thực tế.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam khảo sát kỹ lưỡng địa chất, khí tượng, sinh vật, thảo vật, môi trường tự nhiên, môi trường nhân bản và tiềm năng của mỗi năng lượng tái tạo trước khi quyết định về khai triển một loại năng lượng nào.

2. Với bốn chục năm chiến tranh, Việt Nam có kinh nghiệm tổ chức cứu trợ khi có thảm họa. Nhưng an toàn công nghiệp là một ngành khoa học kỹ thuật. Vấn đề không những là xử lý tai nạn mà, quan trọng hơn, ngăn ngừa tai nạn. Những bộ tiêu chuẩn và quy trình về an toàn công nghiệp chúng tôi nêu ở một phần trên cần đến nhiều chuyên gia được đào tạo quy củ và có kinh nghiệm thâm niên viết và đưa vào thi hành. Hiện nay, mới chỉ có 100 người đang được đào tạo để điều hành an toàn bức xạ hạt nhân mà những chu trình bảo đảm an toàn và đối phó với sự cố thì phải viết đến cả pho sách. Tự viết, dù là với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài, rồi đưa vào áp dụng tất cả những chu trình đó thì đến năm 2020 sẽ không xong. Sau đó lại còn phải thử nghiệm để sửa chữa những khuyết điểm trước khi quảng bá giữa dân chúng và chính quyền điạ phương.

Chúng tôi đề nghị chọn mua bản quyền những tiêu chuẩn và quy trình bảo đảm an toàn và cấp cứu của một cường quốc công nghiệp như là Pháp, Đức, Nhật hay Hoa Kỳ, dịch sang Việt ngữ và đưa vào dùng thử ngay. Sau này, với sự giúp đỡ của AEIA và các nước bạn, sẽ tuần tự cải biên để cho thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Dù sao, những chu trình và tiêu chuẩn kỹ thuật đều người này chép người kia. Sau Thế chiến II, Nhật Bản cũng chỉ chép nguyên văn những tiêu chuẩn của Hoa Kỳ để "đi tắt đón đầu".

3. Các nước công nghệ tiên tiến vẫn còn tiến hành những dự án nghiên cứu triển khai về sản xuất, ứng dụng và tiết kiệm những loại năng lượng này.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia vào phong trào này và xin gợi ý vài đề tài liên quan mật thiết với Việt Nam :

công nghệ than sạch CCT,

lỏng hoá và khí hoá than,

những công nghệ hoá học than,

những tuabin khí nhỏ chạy theo chu trình kết hợp,

lọc và rửa khói thải ra từ những nhà máy.

4. Về năng lượng hạt nhân, những cường quốc hạt nhân đã có sẵn công nghệ làm giàu uranium nhưng chưa biết xử lý ổn thỏa nhiên liệu đã được phóng xạ. Nhưng Diễn Đàn Generation IV đang nghiên cứu triển khai một hệ thống sản xuất năng lượng hạt nhân giảm cường độ của hai vấn đề này.

Như viết ở một phần trên, chúng tôi đề nghị Việt Nam :

- Xây một nhà máy làm giàu uranium và sản xuất những thanh nhiên liệu hạt nhân chung với các nước bạn thuộc khối ASEAN,

- Và xin tham gia vào những dự án nghiên cứu triển khai quốc tế đó, mặc dù lúc đầu chỉ là một đóng góp khiêm tốn. .

5. Mặc dù nhân lọai chủ yếu dùng năng lượng sinh học cho tới cách mạng công nghiệp thứ nhất, ảnh hưởng kỹ thuật, kinh tế và xã hội của những loại năng lượng này vẫn còn là một bí hiểm.

Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia tích cực vào những chương trình nghiên cứu triển khai quốc tế và xin gợi ý vài đề tài liên quan mật thiết với Việt Nam :

- Trồng rong biển làm nguyên liệu sản xuất năng lượng sinh học,

- Trồng cây mọc mau như là tre, cây bạch hạc,… tại những vùng bị chiến tranh ô nhiễm hay phá hoại để làm củi đốt cho các nhà máy điện địa phương,

- Dùng phế liệu nông nghiệp để sản xuất nhiên liệu sinh học như là dầu điêzen sinh học, ethanol sinh học,...

Xin chú ý chúng tôi đề nghị dùng phế liệu nông nghiệp chứ không dùng những thảo vật được trồng đặc biệt để làm nguyên liệu cho ngành năng lượng sinh học.

Kết luận

Nói chung thì Việt Nam tiêu pha năng lượng chứ không chăm chú dùng năng lượng để sản xuất. Những chính sách công nghiệp, giao thông vận tải cũng như thiết kế đô thị dẫn tới lãng phí năng lượn...