Ngành công nghiệp chuyển mạnh cơ cấu để tăng trưởng ổn định 14,5%

Khẳng định thành tựu, thấy hết khó khăn Nét nổi bật của công nghiệp Việt Nam trong hai năm đầu thế kỷ mới là duy trì tăng trưởng 14 - 14,45%. Năm 2002, khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã có chuyển biến

Một số ngành như Điện, Than, Dầu khí, Xi măng, Thép, Chế tạo thiết bị điện và máy biến thế, sản xuất phân bón hoá học, săm lốp ô tô, xe máy và xe đạp, dệt may, giày dép, pin, ắc quy, quạt điện, chất tẩy rửa, thực phẩm  chế biến, dầu thực vật, mỳ ăn liền... đã huy động được năng lực sản xuất cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng xã hội. Một số ngành năng lực sản xuất đã tăng thêm, công nghệ được đổi mới, khả năng cạnh tranh của sản phẩm khá hơn trước, chiếm được lòng tin của khách hàng trong nước và nước ngoài. Kim  ngạch xuất khẩu cả năm 2002 đạt 16,53 tỷ USD, tăng 10% so với 2001, thì riêng ngành công nghiệp đã đạt 11,2 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước và chiếm 68,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 4,6 tỷ USD, dệt may đạt 2,7 tỷ USD (tăng 37,2%), giày dép đạt 1,85 tỷ USD (tăng 18,7%)... Thị trường xuất khẩu truyền thống với giá trị lớn như EU, Nhật Bản, các nước ASEAN được duy trì và tăng kim ngạch đáng kể với thị trường rộng lớn như Mỹ, Trung Quốc.

Đạt được những kết quả trên là do cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, các giải pháp chỉ đạo điều hành của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch của các doanh nghiệp, tạo môi trường khuyến khích đầu tư trong nước cũng như đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Năm 2002, đầu tư trong nước tăng mạnh, và đã có 480 dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp và xây dựng được cấp giấy phép hoạt động với tổng số vốn đăng ký 886 triệu USD. Đây vừa là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng trong năm  vừa là cơ sở để tăng trưởng bền vững trong những năm tới. Riêng các doanh nghiệp dân doanh mới thành lập trong năm 2002 đã đầu tư thêm chừng 30.000 tỷ đồng (2,7 tỷ USD) cao hơn số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhiều gần bằng 2 năm trước đó cộng lại. Các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp trong năm qua đã đầu tư trên 23.700 tỷ đồng, tuy mới đạt trên 73% kế hoạch nhưng đã tăng hơn năm trước 30,9%, hoàn thành một số công trình quan trọng, nâng cao năng lực sản xuất của các ngành. Các Bộ, ngành và địa phương đã có nhiều cố gắng trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng cường và phát triển những lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh để chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế có hiệu quả. Nhiều dự án đầu tư được triển khai bằng tất cả các nguồn vốn. Nhiều sản phẩm mới với mẫu mã đa dạng, phong phú, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng đã được sản xuất từ năng lực khoa học công nghệ trong nước hoặc chuyển giao từ nước ngoài đưa ra thị trường được khách hàng nước ngoài và trong nước chấp nhận... Sự điều hành hiệu quả của các cấp, tinh thần đoàn kết của các doanh nghiệp đã tạo được sức mạnh tổng hợp vượt qua khó khăn, hướng tới phát triển ngành và doanh nghiệp.

Năm 2002, tuy đã đạt được những thắng lợi to lớn rất đáng tự hào, nhưng nền kinh tế nước ta vẫn chưa khắc phục được những yếu kém  cơ bản vốn có của nó. Đó là: Quy mô sản xuất còn nhỏ với công nghệ chưa được đổi mới đồng bộ, hoàn thiện. Chất lượng hàng hoá thấp, chi phí sản xuất cao, nên tính hiệu quả và sức cạnh tranh trong từng sản phẩm, trong từng ngành, trong toàn bộ ngành công nghiệp và nền kinh tế nói chung còn yếu. Hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là khoáng sản, nông sản chưa chế biến phải chịu giá thấp và hàng gia công còn lớn, nên giá trị gia tăng không đáng kể, vì thế lợi ích kinh tế không thể cao. Mức thu nhập  của phần lớn dân cư thấp, đặc biệt là nông thôn làm cho sức mua hàng công nghiệp trong nước hạn chế. Trong lúc đó, cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương chuyển dịch chậm, chưa đáp ứng yêu cầu; tiến trình sắp xếp, tổ chức lại sản xuất và cổ phần hoá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) rất chậm. Nhiều địa phương và tổng công ty vẫn còn giữ lại những doanh nghiệp quy mô nhỏ, làm ra lãi không đủ bù cho số bị lỗ, thậm chí thua lỗ mấy năm liền.

Tuy đã được cải thiện và nâng cao một bước đáng kể, nhưng nhìn chung trình độ công nghệ và trang thiết bị của ta còn hạn chế, năng suất thấp và chất lượng chưa cao, vật tư còn phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Do đó, bên cạnh những sản phẩm  đã có uy tín và vị trí trên thị trường trong nước và quốc tế, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều sản phẩm thiếu sức cạnh tranh. Tại thời điểm này, mới có các nhóm sản phẩm nông, lâm, thủy sản chế biến, may mặc, da giày, thiết bị điện và một số sản phẩm cơ khí có khả năng cạnh tranh; Các nhóm sản phẩm dệt, sợi, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, điện tử - tin học... nếu được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước cũng có khả năng cạnh tranh. Nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh còn thấp  gồm  thép, phân bón hoá học, giấy các loại, xơ bông tổng hợp, quần áo may sẵn, đồ gốm sứ thủy tinh, phụ tùng xe đạp và xe có động cơ, sản phẩm nhôm, sơn, nước giải khát. Năm 2003, sẽ có khó khăn gay gắt hơn đối với những mặt hàng này, vì nước ta bắt đầu thực hiện việc cắt giảm  thuế nhập khẩu của 600 mặt hàng công nghiệp, hạ thấp mức bảo hộ đối với các sản phẩm công nghiệp trong nước. Ngoài ra, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế còn xảy ra phổ biến trầm trọng ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh về giá cả, gây khó khăn cho sản xuất công nghiệp trong nước.

Nguồn vốn đầu tư tuy đã có hướng tập trung cho công nghiệp, đặc biệt là các dự án công nghiệp trọng điểm  quốc gia, nhưng thủ tục triển khai chậm, giải ngân còn gặp rất nhiều khó khăn, một số trường hợp đã làm mất thời cơ, trình độ và năng lực tư vấn thiết kế, năng lực quản lý dự án của chủ đầu tư còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của các dự án đầu tư đã và đang triển khai. Một số dự án đầu tư mới quan tâm đến đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đầu ra, dẫn đến vốn đầu tư kém hiệu quả. Cơ chế phân cấp trong quản lý đầu tư chưa đi đôi với chế tài ràng buộc, kiểm tra, kiểm soát nên đầu tư thiếu tập trung, quy định quản lý đầu tư còn bị vi phạm.

Giải  pháp đồng bộ, phát huy nội lực

Năm  2003 là năm "bản lề" có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thành mục tiêu đã đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001- 2005. Không đẩy được tốc độ phát triển năm 2003, sẽ không tạo được đà cho 2 năm  cuối của kế hoạch 5 năm mà Đại hội IX của Đảng và Quốc hội đã thông qua. Mục tiêu của ngành Công nghiệp năm 2003 là tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu sản phẩm. Toàn Ngành phấn đấu đạt giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,5% so với năm 2002. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước tăng 11,6% (riêng các đơn vị thuộc Bộ Công nghiệp tăng 12,8%), khu vực công nghiệp dân doanh tăng 19,1% và khu vực công nghiệp  có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 14,6%. Các ngành công nghiệp  chế biến sử dụng triệt để nguồn nguyên liệu trong nước để có giá trị gia tăng trên 10,5%.

Năm nay, các ngành công nghiệp quan trọng tạo động lực cho các ngành kinh tế phát triển và đáp ứng nhu cầu xã hội như điện lực, khai thác khí đốt, than đá, thép, xi măng, động cơ điện và động cơ điêden, hoá chất cơ bản và phân bón hoá học, sản xuất và lắp ráp ô tô, giấy các loại, hàng điện tử và máy tính, vải lụa, may mặc, giày dép, chế biến sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản xuất khẩu... đều tăng cao hơn mức thực hiện năm trước. Trong số đó, sản phẩm tăng cao nhất lên đến 37%. Toàn ngành công nghiệp phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 12,3 tỷ USD, tăng 9,8% so với năm trước và chiếm gần 70% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, bao gồm 4,6 tỷ USD hàng khoáng sản và công nghiệp nặng, 3,15 tỷ USD hàng dệt may, 2,15 tỷ USD giày dép các loại, 550 triệu USD hàng điện tử và linh kiện, 370 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ.

Để đạt được những mục tiêu cơ bản của năm  nay và những năm tới, biện pháp hàng đầu là toàn ngành công nghiệp, các địa phương, tổng công ty và doanh nghiệp phải có chương trình, biện pháp cụ thể giảm chi phí sản xuất của các sản phẩm chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cả ở  thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, tăng nhanh sản xuất các nhóm  hàng là đầu vào của các ngành sản xuất với giá thành hạ và chất lượng đảm  bảo tốt, các nhóm mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ mạnh và có khả năng cạnh tranh cao; kiên quyết không bố trí sản xuất những mặt hàng không có khả năng tiêu thụ hoặc bị lỗ; tạo nên sự chuyển biến về chất tăng dần giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp; khuyến khích phát triển các sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Giải pháp có ý nghĩa quyết định phát triển ngành công nghiệp là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp đi liền với thúc đẩy sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, phù hợp nhu cầu của thị trường, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế có chọn lọc các mặt hàng nhập khẩu bảo đảm có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nhất là các sản phẩm có lợi thế  và có thị trường. Để đến năm 2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 39% trong tổng giá trị GDP của cả nước, toàn Ngành cần đẩy mạnh xây dựng cơ bản bằng mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, tăng nhanh cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng hiện đại hoá để nâng cao năng lực sản xuất, tạo cơ sở phát triển mặt hàng mới đáp ứng nhu cầu trong nước và gia tăng sản lượng xuất khẩu, tạo thêm việc làm  cho người lao động. Riêng các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp năm nay phải thực hiện cho được tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản lên đến 44.215 tỷ đồng, tăng hơn mức thực hiện năm ngoái 20.515 đồng. Bộ sẽ tập trung vốn bố trí cho những dự án trọng điểm và cần phải hoàn thành trong năm 2003. Trong đó, ngành Điện phải thực hiện 11.200 tỷ đồng để hoàn thành và đưa vào hoạt động 22 công trình điện quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu về điện cho các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng và sinh hoạt của nhân dân. Các ngành khai thác than, sản xuất thép, dệt may, hoá chất, sản xuất giấy... sẽ phải thực hiện một khối lượng vốn xây dựng cơ bản nhiều hơn hẳn các năm trước để thực hiện đúng tiến độ, sớm đưa các công trình quan trọng vào hoạt động có hiệu quả.

Giải pháp tạo đầu ra ổn định vững chắc cho sản phẩm công nghiệp trong năm nay và những năm tới để đẩy mạnh sản xuất là mở rộng và phát triển thị trường cả trong nước và xuất khẩu, xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hoá, bản quyền công nghệ, thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, các tiêu chuẩn ISO 14000 và SA 8000 để hội đủ điều kiện tham gia xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường lớn đòi hỏi các điều kiện khắt khe. Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, 22 chủng loại mặt hàng công nghiệp chủ yếu của nước ta đã xuất sang thị trường 53 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Ngành công nghiệp sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật; đầu tư mang tính chất đột phá, đi thẳng vào công nghệ hiện đại để chuyển mạnh từ xuất khẩu hàng thô và gia công là chủ yếu sang xuất khẩu hàng tinh chế và qua chế biến, nâng cao giá trị gia tăng kim  ngạch xuất khẩu và tạo dựng thêm nhiều loại hàng hoá mang thương hiệu Việt Nam. Đồng thời lựa chọn những mặt hàng nếu xuất khẩu trực tiếp ít hiệu quả do thuế suất nhập khẩu cao so với đầu tư sản xuất tại nước đó để có hướng đầu tư ra nước ngoài. Hiện tại, số dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài còn quá ít, mới có 63 dự án với tổng vốn đầu tư 61 triệu USD. Coi trọng thị trường truyền thống, đồng thời tích cực mở rộng thêm thị trường mới có nhiều tiềm năng như Mỹ, Nga, Trung Quốc, châu Phi, Mỹ Latinh; đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển miền Tây của Trung Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu biên mậu.

Toàn ngành Công nghiệp phải tích cực thực hiện các Nghị quyết T¦ lần thứ 3 và lần thứ 5 (Khoá IX) đẩy mạnh sắp xếp lại sản xuất, tổ chức tốt việc triển khai cổ phần hoá theo Nghị định 54 (sửa đổi), nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Đây là giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và đổi mới cơ cấu ngành Công nghiệp có hiệu quả cao; thí điểm mô hình công ty mẹ, công ty con; tiếp tục đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực chỉ đạo điều hành, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi công cộng, đồng thời chống lãng phí, tham nhũng để tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Bộ Công nghiệp sẽ làm tốt hơn vai trò quản lý Nhà nước, vai trò định hướng phát triển công nghiệp, tạo ra các sản phẩm đầu vào cho các ngành sản xuất khác và đào tạo nguồn nhân lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2003 (14,5%) Chính phủ sẽ có những giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ Công nghiệp phát triển, cụ thể: Ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 52/CP về quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng phân cấp mạnh hơn để các chủ đầu tư chịu trách nhiệm về hậu quả đầu tư trước Nhà nước và pháp luật, ban hành Nghị định khuyến công. Chính phủ sẽ chỉ đạo để thực hiện cơ chế một giá giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giảm cước viễn thông, loại bỏ một số loại phí bất hợp lý để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, có giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài để giảm giá bán sản phẩm tại thị trường đó. Chính phủ tiếp tục mở rộng quan hệ, ký kết các Hiệp định thương mại đối với các nước để mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng công nghiệp Việt Nam và mở rộng quy chế thưởng kim ngạch xuất khẩu theo hướng cho mặt hàng mới, cho thị trường mới và các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn (theo kim ngạch xuất khẩu)./.

  • Tags: