Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh, trước đó, tại kỳ họp thứ 6, Chính phủ đã trình Quốc hội 02 phương án về vấn đề hưởng bảo hiểm xã một lần.
Phương án 1, người lao động được chia làm hai nhóm: Nhóm 1 là người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực, sau 12 tháng không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm và có đề nghị thì được hưởng bảo hiểm xã hội một lần như quy định hiện hành; Nhóm 2 là người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực trở đi thì không được áp dụng quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Phương án 2, người lao động được giải quyết một phần nhưng tối đa không quá 50% tổng thời gian đã đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn lại được bảo lưu để người lao động tiếp tục tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, 02 phương án Chính phủ trình đều chưa tối ưu, chưa giải quyết triệt để tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần và tạo được sự đồng thuận cao. Tuy nhiên qua rà soát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghiêng về phương án 1 vì cơ bản bảo đảm kế thừa quy định hiện hành, không gây sự xáo trộn đến gần 18 triệu người đang tham gia bảo hiểm xã hội.
Phương án 1 phù hợp thông lệ quốc tế về bảo hiểm xã hội, hạn chế được tình trạng một người có nhiều lần rút bảo hiểm xã hội một lần thời gian qua. Về lâu dài, người tham gia mới sẽ không còn được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nên góp phần gia tăng số người ở lại hệ thống để được thụ hưởng các chế độ từ quá trình tích lũy và giảm gánh nặng cho cả xã hội, ngân sách.
Phương án 1 hướng dần tới nguyên tắc khi có việc làm và thu nhập, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội để tích lũy cho tương lai trong bối cảnh già hóa ngày càng gia tăng.
Điểm hạn chế của phương án 1 là vẫn có sự mất bình đẳng giữa người lao động tham gia trước và sau khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực. Nhiều người hoàn cảnh khó khăn cần rút bảo hiểm xã hội một lần để giải quyết trước mắt. Thời gian chờ hưởng lương hưu dài (20 - 40 năm), trong khi nhiều lao động phổ thông bị các doanh nghiệp sa thải, khó tham gia thị trường lao động chính thức.
Với phương án 2, ưu điểm là không tạo sự khác biệt lớn giữa các đối tượng tham gia trước và sau khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực và có thể giữ chân được người lao động tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, với việc quy định người lao động chỉ được giải quyết một phần thời gian đóng (50%) sẽ tạo cho người lao động có tâm lý bị giảm, hạn chế quyền lợi.
Đồng thời, phương án 2 cũng không giải quyết triệt để được việc hưởng bảo hiểm xã hội một lần, cũng không giới hạn số lần hưởng bảo hiểm xã hội một lần của cả người đã và sẽ tham gia bảo hiểm xã hội. Do đó, không giải quyết được thực trạng một người có nhiều lần hưởng bảo hiểm xã hội một lần thời gian qua.
Thường vụ Quốc hội cảnh báo, 02 phương án Chính phủ trình có thể dẫn đến tình trạng gia tăng đột biến số người rút bảo hiểm xã hội một lần trước khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực. Bộ phận lớn người lao động lo ngại quyền lợi không được bảo đảm so với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và có thể dẫn đến phản ứng tập thể. Do đó, Chính phủ cần phòng ngừa triệt để phản ứng tập thể của người lao động, theo dõi tình hình chặt chẽ trong quá trình tổ chức thực hiện Luật.
Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 20/11/2014. Sau gần 7 năm thi hành (kể từ ngày Luật có hiệu lực 01/01/2016 đến nay), Luật đã góp phần tích cực trong việc bảo đảm các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động thông qua các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn cũng như dài hạn.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế, bất cập như: Diện bao phủ đối tượng tham gia và thụ hưởng Bảo hiểm xã hội trên thực tế còn thấp so với tiềm năng; tính tuân thủ pháp luật về Bảo hiểm xã hội còn chưa cao, tình trạng chậm đóng, trốn đóng Bảo hiểm xã hội còn xảy ra ở nhiều địa phương, doanh nghiệp; chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa thật sự hấp dẫn người dân tham gia; một số quy định không còn phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn hiện nay; tỉ lệ người hưởng lương hưu, trợ cấp Bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hằng tháng chỉ chiếm khoảng 35% tổng số người sau độ tuổi nghỉ hưu; đặc biệt là tỷ lệ người hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội một lần tăng nhanh trong các năm gần đây…
Đặc biệt, khi nảy sinh tình huống mới, nhất là hậu COVID-19 thì nhiều nội dung không còn phù hợp. Việc Quốc hội quyết định sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội một yêu cầu thiết thực, tất yếu.