Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn khu công nghiệp để làm việc: Nghiên cứu trường hợp lao động tại các khu công nghiệp ở Tiền Giang

Khu công nghiệp (KCN) có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tại tỉnh Tiền Giang, sự phát triển của các KCN đã góp phần giải quyết rất nhiều công ăn việc làm ch

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

            Tiền Giang là tỉnh vừa thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long, vừa nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng Nam và cách thành phố Cần Thơ 90 km về hướng Bắc. Tiền Giang nằm trên các trục giao thông - kinh tế quan trọng như: quốc lộ 1A, quốc lộ 50, đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương,... nối thành phố Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, Tiền Giang có 4 KCN: Mỹ Tho, Tân Hương, Soài Rạp, Long Giang; ngoài ra trên địa bàn tỉnh hiện còn có 4 Cụm công nghiệp đã triển khai hạ tầng, gồm: Trung An, An Thạnh, Tân Mỹ Chánh và Song Thuận. Với vị trí địa lý thuận lợi và môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện, Tiền Giang ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào các KCN, đồng thời giúp giải quyết việc làm cho hơn 12.000 công nhân lao động chưa kể khoảng 3.500 lao động làm các dịch vụ phụ trợ khác như: bốc xếp, thương mại - dịch vụ, kinh doanh nhà trọ... của Tỉnh và các vùng lân cận. Mặc dù các KCN đã giúp giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động, nhưng một thực tế là đa số doanh nghiệp thuộc các KCN chỉ có nhu cầu tuyển dụng những lao động phổ thông nhưng vẫn không giải quyết được tình trạng thiếu hụt lao động. Để làm rõ vấn đề trên, chúng ta cần có thông tin quan trọng về những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của lao động khi chọn làm việc tại các KCN ở Tiền Giang. 

2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Phương pháp thu thập số liệu

Phương pháp chọn mẫu phân tầng kết hợp với ngẫu nhiên được sử dụng để thu thập số liệu sơ cấp từ 180 công nhân đang làm việc trong các KCN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, bao gồm: 115 công nhân tại KCN Mỹ Tho và 65 công nhân tại KCN Tân Hương. Số liệu thứ cấp của nghiên cứu được thu thập từ các nguồn: UBND Tỉnh, Sở Công Thương, Cục Thống kê, Ban quản lý các KCN Tiền Giang và các nhận định, đánh giá của các chuyên môn, cán bộ quản lý liên quan đến nguồn nhân lực tại KCN.

2.2. Phương pháp phân tích số liệu

Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích bảng chéo (Cross-tab) để phân tích thực trạng việc làm và thu nhập của lao động tại các KCN ở Tiền Giang. Bên cạnh đó, phân tích nhân tố (Factor Analysis) được sử dụng để xác định các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định làm việc của công nhân tại các KCN trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Một số đặc điểm của lao động tại các KCN ở Tiền Giang

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại các KCN Tiền Giang, số lao động còn độc thân chiếm đến 65,5% số người được khảo sát (trong đó nam chiếm 32,2%; nữ chiếm 33,3%) bởi vì phần lớn lao động đã kết hôn ít chấp nhận làm xa gia đình, đặc biệt là lao động nữ vì họ còn phải chăm lo cho gia đình. Nhìn chung, độ tuổi của người lao động vẫn còn khá trẻ, bình quân 25 tuổi, trong đó lao động thuộc nhóm tuổi từ 18 đến 25 chiếm hơn 50% vì đa phần họ phải làm việc trong các lĩnh vực đòi hỏi nhiều sức khỏe, áp lực cao. Tuy nhiên, đối tượng lao động nam lại tập trung nhiều nhất ở nhóm tuổi từ 25 đến 40 (31,2%) vì họ đã có thâm niên làm việc cao tại KCN.

Bảng 1: Một số đặc điểm của người lao động tại các KCN ở Tiền Giang

Đơn vị tính: %

Giới tính

Tình trạng hôn nhân

18-25 tuổi

25-40 tuổi

Trên 40 tuổi

Tổng cộng

Nam

Vẫn còn độc thân

17,8

14,4

0

32,2

Lập gia đình, chưa có con

1,1

6,8

0

7,8

Lập gia đình, có con nhỏ

1,1

10,0

3,3

14,4

Lập gia đình, có con trưởng thành

-

-

1,1

1,1

Tổng cộng

20,0

31,2

4,4

55,6

Nữ

Vẫn còn độc thân

28,9

4,4

-

33,3

Lập gia đình, chưa có con

1,1

2,2

-

3,3

Lập gia đình, có con nhỏ

1,1

5,6

-

6,7

Lập gia đình, có con trưởng thành

-

1,1

-

1,1

Tổng cộng

31,1

13,3

-

44,4

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 03/2010

Khi phân tích trình độ học vấn của người lao động cho thấy, gần 60% lao động đạt trình độ cấp II và gần 30% lao động đạt trình độ cấp III. Phần đông các lao động vừa tốt nghiệp trung học phổ thông đã phải tìm việc làm ngay để phụ giúp gia đình. Số lao động có trình độ trung cấp chỉ chiếm khoảng 10%. Tuy bị hạn chế về trình độ nhưng đây không phải là trở ngại quá lớn đối với người lao động trong quá trình làm việc tại các KCN bởi vì các doanh nghiệp chủ yếu tuyển lao động phổ thông, tính chất công việc cũng không đòi hỏi chuyên môn cao mà cần nhất là có sức khỏe.

Về vấn đề quê quán, phần lớn người lao động đều đến từ các thị trấn hay trung tâm xã (57,8%). Số còn lại đến từ các thành phố/thị xã hay vùng sâu, vùng xa; mỗi khu vực chiếm 21,1%. Cũng theo số liệu điều tra, phần lớn lao động biết và đến làm việc tại KCN thông qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè (65,6%), 28,9% người tự tìm đến công ty và chỉ có một tỷ lệ nhỏ lao động là thông qua phương tiện truyền thông hoặc do sự điều động của công ty mẹ.

3.2. Đời sống của lao động tại các KCN ở Tiền Giang

Tình hình cư trú: Đa số lao động đều đăng ký cư trú lâu dài (79%). Số lao động chưa đăng ký chỗ ở hiện tại nhưng cư trú lâu dài ở nơi khác cùng tỉnh và đăng ký từ 6 tháng trở lên xấp xỉ bằng nhau (10% và 9%). Ngoài ra, còn có số ít lao động đăng ký cư trú dưới 6 tháng (2%).

Hình thức nhà ở và trang thiết bị trong nhà:  Kết quả nghiên cứu cho thấy, 85,6% lao động đang ở nhà thuê mà đa số là nhà trọ bình dân do các công ty đầu tư cơ sở hạ tầng KCN xây dựng. Điều này cũng dễ hiểu vì đa số lao động từ nơi xa đến và thu nhập của họ tương đối thấp nên nhà trọ giá rẻ là lựa chọn duy nhất của họ. Chỉ có 12,2% người lao động hiện đang ở nhà thuộc sở hữu của người thân, bà con và tỷ lệ rất nhỏ (2,2%) lao động có quyền sở hữu nhà riêng. Cũng theo kết quả điều tra, phần lớn lao động đều sở hữu quạt máy (71,1%), xe gắn máy (62,2%), bếp gas (56,7%) và tivi (46,7%). Đây là những trang thiết bị rất cần thiết cho cuộc sống và việc làm hằng ngày của lao động. Bên cạnh đó, chỉ có một số ít lao động có những trang thiết bị như máy vi tính, tủ lạnh, máy giặt, những lao động này chủ yếu là người địa phương hiện đang ở nhà của người thân hay bà con.

Dịch vụ công cộng: Kết quả nghiên cứu về mức độ sử dụng dịch vụ công cộng của lao động tại các KCN Tiền Giang cho thấy: 100% lao động có sử dụng điện, 87,8% sử dụng nước máy, 25,6% sử dụng điện thoại công cộng, số lao động sử dụng internet và truyền hình cáp hầu như không đáng kể vì đây là những dịch vụ mà phần lớn lao động cho rằng không cần thiết.

Bên cạnh đó, kết quả điều tra còn cho thấy, 43,3% lao động không có người thân cùng làm việc tại KCN, 25,6% lao động đang làm việc với vợ hoặc chồng và 23,3% cùng làm việc với anh chị hoặc em ruột. Bên cạnh đó, đa phần lao động nhập cư cũng đánh giá khá tốt về mối quan hệ với người dân địa phương (75,6% lao động đánh giá ở mức bình thường và 13,3% quan hệ thân thiết với người địa phương).

3.3. Thực trạng việc làm và thu nhập của lao động tại các KCN Tiền Giang

Theo số liệu điều tra, đa số đối tượng nghiên cứu đều là công nhân (85,6%), số ít còn lại là lao động giản đơn hay chuyên viên có bằng cấp và chuyên viên quản lý. Hầu hết lao động đều không có trình độ tay nghề trước khi đến làm việc ở các KCN Tiền Giang (90%), ngay cả sau một thời gian làm việc thì số lao động không có trình độ tay nghề cũng rất cao (83,3%). Sở dĩ như vậy là vì công việc của lao động tại các KCN Tiền Giang thường giản đơn, không đòi hỏi chuyên môn cao (may mặc, chế biến thủy sản, lắp ráp linh kiện,...). Hơn nữa, đa số doanh nghiệp đều không đào tạo gì thêm cho lao động sau khi tuyển hay chỉ đào tạo ngắn hạn mà không cấp chứng chỉ và sau đó lao động cứ làm việc theo “sự quen tay”. Còn lại số ít lao động có bằng cấp như trung cấp cơ khí, trung cấp điện, trung cấp chế biến thực phẩm, chứng chỉ điện công nghiệp 3/7, cao đẳng công nghệ thực phẩm.

Theo kết quả nghiên cứu, thu nhập của lao động sau khi đến KCN cao hơn nhiều so với thu nhập của công việc trước khi đến KCN (gần 3 lần). Cụ thể, thu nhập của lao động nam có xu hướng cao hơn lao động nữ do sự khác biệt về tính chất công việc, trong khi đó lao động nữ lại có xu hướng gửi tiền về gia đình cao nhiều hơn với nam, còn lao động nam lại tập trung tích lũy tiền. Bên cạnh đó, sự khác biệt về thu nhập và cơ cấu chi tiêu của người lao động còn thể hiện ở tình trạng hôn nhân. Cụ thể, những lao động đã lập gia đình nhưng chưa có con có mức thu nhập trung bình/tháng cao nhất vì đây là đối tượng chịu khó tăng ca và chưa bận bịu chăm sóc con cái. Đây cũng là nhóm lao động có mức tích lũy cao vì tâm lý chung của những cặp vợ chồng mới cưới. Số ít lao động đã lập gia đình và có con trưởng lớn lại có mức chi sinh hoạt cá nhân cao nhất vì họ không còn gánh nặng chăm sóc con cái và cũng không cần gửi tiền về nhà hay tích lũy. Riêng đối tượng lao động vẫn còn độc thân hàng tháng gửi tiền về nhà nhiều nhất vì họ chi tiêu không nhiều và cũng không có nhiều động cơ tích lũy tiền.

Bảng 2: Mức thu nhập và chi tiêu hàng tháng của lao động tại KCN

Đơn vị tính: đồng

Đặc điểm

Thu nhập

Chi sinh hoạt cá nhân

Gửi về gia đình

Tích lũy

Giới tính

Nam

2.072.000

1.206.000

479.000,0

380.000

Nữ

1.947.500

952.500,0

667.500,0

327.500

Hôn nhân

Độc thân

1.927.119

954.273,0

651.695,0

315.254

Lập GĐ, chưa con

2.310.000

1.410.000

180.000,0

720.000

Lập GĐ, con nhỏ

2.142.105

1.263.158

547.368,0

331.579

Lập GĐ, con lớn

2.000.000

2.000.000

-

-

Chuyên môn

Không có

1.994.667

1.116.000

584.667,0

293.333

Chứng chỉ tay nghề

2.126.667

980.000,0

453.333,0

673.333

Thời gian làm việc

Dưới 2 năm

1.964.706

1.055.882

485.294,0

414.706

Từ 2 đến 4 năm

2.002.632

1.043.421

697.368,0

260.526

Trên 4 năm

2.162.500

1.353.125

321.875,0

487.500

Trung bình

2.016.667

1.093.333

562.778,0

356.667

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 03/2010

Kết quả phân tích cũng khá phù hợp với lý thuyết về lao động, tức là thu nhập của lao động tỷ lệ thuận với khả năng chuyên môn của họ. Ngoài ra, lao động có thâm niên làm việc trên 4 năm cũng được hưởng mức lương cao hơn. Bên cạnh nguồn thu nhập được cải thiện, lao động tại các KCN Tiền Giang còn nhận rất nhiều phúc lợi ngoài tiền lương hàng tháng, chẳng hạn như: 53,3% còn được hưởng lương tháng mười ba, 61,4% được phát đồng phục miễn phí; đến 87,8% được thưởng dịp lễ, tết và 14,4% lao động cho rằng công ty có thăm hỏi tặng quà lúc ốm đau.

3.4. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc của lao động tại các KCN ở Tiền Giang

Một số nghiên cứu của các tác giả Luybeigt (2006), Barta (2005), Hà (2008), Nguyễn (2006), Phạm (2008), Huỳnh và Ông (2009) về vấn đề lao động tại KCN đã chỉ ra rằng có một vài yếu tố chính tác động đến quyết định lựa chọn nơi làm việc của người lao động như “gần nơi ở”, “độc lập về tiền lương”, vấn đề an ninh. Trong nghiên cứu này, thông qua phương pháp tham vấn chuyên gia, tác giả đã đưa vào phiếu điều tra 18 tiêu chí được cho là có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nơi làm việc của người lao động, 18 tiêu chí được phân thành 2 nhóm chính: (1) Nhóm yếu tố thuộc về KCN (7 tiêu chí); (2) Nhóm yếu tố thuộc về doanh nghiệp trong KCN (14 tiêu chí). Tác giả sử dụng thang đo Likert từ 1 đến 5 để người lao động nhận xét theo quy ước đánh giá mức độ tăng dần: “Rất không quan trọng → Rất quan trọng”.

Sau khi kiểm định hệ số Cronbach’s Alpha 3 vòng ta loại được 2 biến ảnh hưởng xấu đến mô hình, lúc này, hệ số Alpha tổng bằng 0,718 chứng tỏ sự chặt chẽ và tương quan giữa các biến quan sát. Sau đó sử dụng 16 biến còn lại đưa vào mô hình phân tích nhân tố và sau 5 vòng kiểm định, mô hình còn giữ lại được 10 biến có tương quan chặt chẽ với nhau và tương quan với nhân tố chung.

Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định làm việc của lao động tại các KCN ở Tiền Giang, kiểm định Bartlett's được thực hiện: H0: Các biến không có tương quan; H1: Có tương quan giữa các biến. Kết quả kiểm định Bartlett's Test có giá trị Sig. = 0,000 nên ta bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 5% và giả thuyết H1 được chấp nhận - nghĩa là các biến có tương quan với nhau. Như vậy, giả thuyết H0 hoàn toàn bị bác bỏ ở mức ý nghĩa α = 5% (vì giá trị P nhỏ hơn 5%) hay các biến có tương quan với nhau.

Kết quả cho thấy, theo tiêu chuẩn Eigenvalue lớn hơn 1 thì chỉ có ba nhân tố được rút ra. Do đó, số lượng ba nhân tố là thích hợp, với Cumulative % cho biết ba nhân tố đầu tiên giải thích được 60,5% biến thiên của dữ liệu. Bảng sau thể hiện mối tương quan giữa ba nhân tố chuẩn hóa F1, F2, F3 và V1 đến V10.

Bảng 3: Ma trận nhân tố sau khi xoay (Rotated Component Matrix)

Biến

Nhân tố

F1

F2

F3

V1: Nhà trọ tại khu công nghiệp

-,105

,757

-,076

V2: Dịch vụ công cộng tại khu công nghiệp

-,036

,741

,145

V3: Cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp

,185

,734

,066

V4: Tiền lương lao động nhận được

,002

,329

,624

V5: Chính sách thưởng đối với lao động

,005

-,060

,872

V6: Chính sách hỗ trợ nhà trọ của công ty

,286

,529

,328

V7: Quan hệ đồng nghiệp trong công ty

,653

-058

,099

V8: Thời gian làm việc tại công ty

,580

,048

,408

V9: Chính sách bảo hộ lao động của công ty

,783

,207

-,237

V10: Chính sách bảo hiểm đối với lao động

,880

-,005

,030

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 03/2010

Từ kết quả trên ta thấy, nhân tố F1 có 4 biến tương quan chặt chẽ với nhau là V7 (Quan hệ đồng nghiệp trong công ty), V8 (Thời gian làm việc tại công ty), V9 (Chính sách bảo hộ lao động của công ty) và V10 (Chính sách bảo hiểm đối với lao động). Các biến này thể hiện mức độ quan trọng về nhân tố an toàn. Nhân tố thứ F2 có 4 biến tương quan chặt chẽ với nhau là V1 (Nhà trọ tại khu công nghiệp), V2 (Dịch vụ công cộng tại khu công nghiệp), V3 (Cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp) và V6 (Chính sách hỗ trợ nhà trọ của công ty). Các biến này thể hiện mức độ quan trọng về nhân tố điều kiện hỗ trợ. Nhân tố thứ F3 có 2 biến tương quan chặt chẽ với nhau là V4 (Tiền lương lao động nhận được) và V5 (Chính sách thưởng đối với lao động). Các biến này thể hiện mức độ quan trọng về nhân tố lợi ích kinh tế.

Bảng 4: Ma trận hệ số nhân tố (Component Score Coefficient Matrix)

Biến

Nhân tố

F1

F2

F3

V1: Nhà trọ tại khu công nghiệp

-,084

,397

-,158

V2: Dịch vụ công cộng tại khu công nghiệp

-,066

,352

-,009

V3: Cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp

,040

,349

-,076

V4: Tiền lương lao động nhận được

-,062

,122

,363

V5: Chính sách thưởng đối với lao động

-,050

-,161

,606

V6: Chính sách hỗ trợ nhà trọ của công ty

,074

,187

,126

V7: Quan hệ đồng nghiệp trong công ty

,294

-,079

,034

V8: Thời gian làm việc tại công ty

,235

-,068

,235

V9: Chính sách bảo hộ lao động của công ty

,360

,097

-,243

V10: Chính sách bảo hiểm đối với lao động

,398

-,054

-,035

Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 03/2010

Như vậy, qua kết quả xử lý ta thấy, có ba nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định làm việc của người lao động tại các KCN Tiền Giang, đó là nhân tố an toàn, nhân tố điều kiện hỗ trợ và nhân tố lợi ích kinh tế, đại diện bởi các nhân tố F1, F2, F3. Điểm nhân tố để kết hợp các biến chuẩn hóa F được trình bày trong phương trình sau:

F1 = 0,294V11 + 0,235V13 + 0,360V15+ 0,398V16

            F2 = 0,397V3 +0,352V6 + 0,349V7 + 0,189V10       

            F3 = 0,363V8 +0,606V9

Từng hệ số trong phương trình ước lượng điểm nhân tố sẽ có mức ảnh hưởng khác nhau đến nhân tố chung. Biến có hệ số lớn nhất sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân tố chung, cụ thể: Biến V10 (Chính sách bảo hiểm đối với người lao động) có hệ số điểm nhân tố cao nhất là 0,398 nên sẽ có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân tố chung F1 (Nhân tố an toàn). Biến V1 (Nhà trọ tại khu công nghiệp) có hệ số điểm nhân tố cao nhất là 0,397 nên sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân tố chung F2 (Nhân tố điều kiện hỗ trợ). Biến V9 (Chính sách thưởng đối với lao động) có hệ số điểm nhân tố cao nhất là 0,606 nên sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến nhân tố chung F3 (Nhân tố lợi ích kinh tế). Trong ba nhân chung trên thì nhân tố “Chính sách thưởng đối với lao động” là nhân tố quyết định cao nhất và ảnh hưởng cao nhất đến quyết định làm việc của lao động tại các KCN Tiền Giang. Nhân tố ảnh hưởng cao tiếp theo đến quyết định làm việc là “Chính sách bảo hiểm đối với lao động” và thứ 3 là “Nhà trọ tại khu công nghiệp”.

4. KẾT LUẬN

Qua kết quả phân tích ta nhận thấy, lao động tại các KCN ở Tiền Giang có trình độ học vấn khá thấp, phần lớn lao động đến KCN do sự giới thiệu của người thân và bạn bè. Tỷ lệ lao động chưa được đào tạo trình độ tay nghề còn khá cao, đời sống vật chất của lao động khá đầy đủ với mức thu nhập trung bình tạm cho là chấp nhận được của lao động. Ba nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định làm việc của lao động đó là, nhân tố an toàn, nhân tố điều kiện hỗ trợ, nhân tố lợi ích kinh tế, trong đó quan trọng nhất là “Chính sách thưởng đối với lao động”, “Chính sách bảo hiểm đối với lao động” và “Nhà trọ tại khu công nghiệp”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  • Mai Văn Nam, Nguyễn Thanh Vũ (2010), Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp vào khu công nghiệp. Tạp chí Phát triển kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 
  • Huỳnh Trường Huy, Ông Thế Vinh (2009), Phân tích thực trạng lao động nhập cư tại khu công nghiệp Vĩnh Long. Tạp chí Quản lý Kinh tế, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương.
  • Ông Thế Vinh (2009), Phân tích thực trang việc làm của lao động tại khu công nghiệp Hòa Phú – Vĩnh Long. Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Cần Thơ.
  • Guy Lubeigt (2006), Các khu công nghiệp ở Myanmar và người lao động Myanmar ở Thái Lan. Đề tài nghiên cứu khoa học.
  • Gyorgyi Barta (2005), Tái cấu trúc các khu công nghiệp tập trung ở Budapest. Đề tài nghiên cứu khoa học.
  • Tags: