Theo đánh giá của Ban Bí thư TƯ Đảng thì, quy mô giáo dục đã có sự tăng trưởng mạnh; cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân từng bước được cải thiện; chất lượng giáo dục có một số chuyển biến tích cực; chủ trương xã hội hóa giáo dục bước đầu được triển khai có hiệu quả…
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu; việc đổi mới hoạt động giáo dục và đào tạo, thực hiện xã hội hóa giáo dục và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo chậm so với yêu cầu và sự đổi mới về kinh tế - xã hội; đội ngũ giáo viên còn thiếu, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục...
Theo đánh giá chung, hiện nay, tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, nên chưa có quyết sách kịp thời một số vấn đề mới liên quan đến giáo dục do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Trong khi đó, Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa chủ động trong việc chỉ đạo giải quyết các vấn đề chiến lược phát triển giáo dục. Việc tập hợp trí tuệ của đội ngũ trí thức trong ngành và trong xã hội cho hoạch định chiến lược và các chính sách về giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục chưa được chú trọng đúng mức. Đặc biệt, nhu cầu học tập của nhân dân rất lớn, mâu thuẫn gay gắt với khả năng đáp ứng của ngành Giáo dục. Tư tưởng vị bằng cấp trong nhân dân, trong công tác cán bộ còn nặng nề, đã làm cho tâm lý khoa cử và chạy theo bằng cấp khá phổ biến.
Cho nên, nhiều người đã cho rằng, rất khó đổi mới hệ thống giáo dục. Trong khi, tiêu chuẩn quản lý giáo dục ở khu vực và trên thế giới đã có, nhưng chúng ta chưa cập nhật và đổi mới kịp. Theo GS Trần Khánh Đức, Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục thì: Qua khảo sát 5 tỉnh, thành (Hà Nội, TP.HCM, Sơn La, Nam Định, Đà Nẵng) để lấy ý kiến về công tác quản lý giáo dục của Nhà nước, việc thi hành các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục trong thời gian qua mới ở mức khá; đánh giá về chuyển biến của công tác quản lý nhà nước về giáo dục ở nước ta sau khi ban hành Luật Giáo dục (1998), các ý kiến cho rằng: không chuyển biến (0%), ít chuyển biến (7%), vừa (49%), mạnh 44%, rất mạnh (0%)...
Nhiều nhà sư phạm cho rằng, Việt Nam đã làm được nhiều việc để thực hiện mục tiêu tổng thể quản lý nhà nước về giáo dục, song cũng còn nhiều việc chưa làm được do sự giằng xé giữa một bên là thị trường chưa hoàn chỉnh và một bên là lề thói của lối kế hoạch chỉ huy, bao cấp quan liêu với cơ chế xin - cho. Đầu vào của giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp bị chi phối bởi sự gia tăng dân số, và sự “bốc thuốc” của một số nhà làm kế hoạch, có trường hợp còn ít hiểu biết về quá trình sư phạm, trong khi đó, đầu ra của ngành giáo dục thì lại bị điều tiết của thị trường lao động, thị trường nhân lực... Công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục của nước ta diễn ra trong xu thế quy mô hoá giáo dục đào tạo ở tất cả các loại hình, ngành càng tăng, nhưng bộ máy điều hành còn nhiều bất cập và bị phân tán.
Ngoài ra, quản lý nhà nước đối với giáo dục ở nước ta diễn ra trong tình trạng: cơ sở nhà trường muốn được tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, song cấp trên quản lý ở một số nơi không muốn tăng quyền cho cấp dưới.
Trong những năm qua, dù khó khăn như vậy, nhưng Việt Nam vẫn chưa mạnh dạn phát triển giáo dục cộng đồng, nhà trường cộng đồng, vẫn có xu hướng âm thầm ”công lập hoá”, “bán công hoá” đối với quy mô đào tạo ở hệ giáo dục phổ thông ở một số địa phương.
Một vấn đề không thể không đề cập đến, đó là chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục của Việt Nam đang ở mức nào, cho đến nay vẫn là vấn đề đang tranh cãi. Nhưng có một đòi hỏi gay gắt từ thực tiễn là không thể bằng lòng và đứng yên với những gì đang có, nhất là khi tiến trình gia nhập WTO đang tới gần và xu hướng hội nhập phát triển mạnh mẽ.
Một nhà sư phạm lớn của Việt Nam đã phải nói: “Hơn một thập kỷ qua, giáo dục của nước ta đã tụt hậu mà đời sống vẫn lên, kinh tế vẫn tăng trưởng đều đều, có sao đâu! Nhưng nếu nhìn xa hơn vào xu thế chứ không chỉ hiện trạng, sẽ thấy rằng, trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, chỉ cần giáo dục tụt hậu thêm một thập kỷ nữa, đủ đưa đất nước đến bờ vực. Việc đó cũng chắc chắn như ngày mai mặt trời sẽ mọc. Vì vậy, phát ra tín hiệu SOS lúc này không phải quá sớm”.
Hiện tượng trẻ em phải học quá sức chịu đựng của chúng, mặc dù đã bị lên án nhiều, nhưng vẫn còn khá phổ biến ở các thành phố. Không cẩn thận, trường học biến thành nơi đày đoạ trẻ em, cả về sức khoẻ lẫn trí tuệ, đó là mối hiểm hoạ có thực không thể coi thường.
Tiểu học đã vậy, lên tới trung học thì học thêm, tăng tiết lu bù. Đầu óc học sinh cứ nhồi nhét như thế mà không vỡ tung đã là may, cho nên kết quả thảm hại trong mấy kỳ thi vừa qua không có gì lạ. Tại sao ta cứ nhìn các huy chương vàng, huy chương bạc trong các cuộc thi olimpic quốc tế mà quên đi trình độ thực tế của hàng triệu học sinh phổ thông? Kiến thức đã kém, mà đạo đức, nhân cách thì hàng nghìn mánh khoé gian lận trong thi cử, khiến nhiều người lo lắng cho sự tụt dốc tinh thần của xã hội tương lai.
Vậy mà tiểu học và trung học xem ra vẫn còn khá hơn đại học là nơi mà nhiều người cho là đang “học đại”. Tuy mấy năm gần đây, trường sở có khang trang hơn, nhưng nói chung đại học vẫn đang trong tình trạng báo động đỏ. Sau khi đã quá mệt mỏi ở trường phổ thông, đến khi thi được vào đại học, nhiều sinh viên không còn sức tiếp tục cố gắng, sinh ra tâm lý học cầm chừng. Đã thế, cách dạy ở đại học chẳng khác phổ thông là mấy, nhiều nơi sinh viên vẫn tiếp tục cách học vẹt như ở phổ thông. Việc học ở bậc cao học và tiến sĩ cũng còn nhiều vấn đề phải bàn.
Để giải quyết những vấn đề bất cập về giáo dục hiện nay, chúng ta cần tham khảo những ý kiến sau:
Một là, phải cải cách thi cử theo kinh nghiệm các nước tiên tiến. Tại sao không nghĩ đến việc bỏ hẳn một số kỳ thi và thay đổi cách tuyển sinh đại học, lại cứ loay hoay mãi với những chuyện như “hai chung”, “ba chung”, nguyện vọng 1, nguyện vọng 2, thi trắc nghiệm hay tự luận...?
Hai là, cải cách tiền lương và xóa bỏ dạy thêm, học thêm. Chính sách tiền lương đối với giáo viên phải thay đổi, tối thiểu phải đảm bảo cho giáo viên một mức sống đàng hoàng theo trình độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Ba là, cải cách việc biên soạn, xuất bản và sử dụng sách giáo khoa. Cách làm hiện nay chưa thích hợp, cần chấn chỉnh, học tập kinh nghiệm của nước ngoài để tiến đến sách giáo khoa ổn định, in chắc chắn, đẹp, hấp dẫn về hình thức cũng như nội dung. Sách giáo khoa phải được bán cho các nhà trường để học sinh thuê, mượn là chủ yếu.