Nỗi lo trước đích đến WTO

Đích đến WTO chỉ còn tính bằng ngày, nhưng nhìn lại ngành Công nghiệp của Việt Nam, mới thấy, có quá nhiều điều đáng lo. Một thực trạng chung là các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên tất cả các lĩn

Ngành Giấy yếu kém

20 năm phát triển, ngành Giấy trong nước vẫn không chủ động được nguồn nguyên liệu, phải nhập khẩu bột giấy từ nước ngoài, khiến giá nguyên liệu bột giấy tăng liên tục, bình quân trên 120 USD/tấn so với đầu năm, nhưng giá bán hầu như không tăng. Trong nước chỉ có vài doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu, đó là Giấy Bãi Bằng, Giấy Tân Mai, Giấy Sài Gòn, còn lại đa phần các nhà máy giấy khác mới đầu tư hoặc không chủ động được nguồn bột giấy đều rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu, sản phẩm làm ra có giá thành cao, nếu bán với giá thị trường sẽ bị thua lỗ nặng.

Ngoài ra, theo nhận xét của một số chuyên gia, các doanh nghiệp ngành Giấy chưa làm chủ được công nghệ, chưa có kinh nghiệm sản xuất mặt hàng này và thị trường sản phẩm chưa ổn định. Việc đầu tư quy mô nhỏ, mạnh ai nấy làm, không những không mang lại hiệu quả cạnh tranh mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Trong 20 năm qua, năng lực ngành Giấy được tăng lên gấp đôi, lên gần 1 triệu tấn/năm (thực tế sản xuất được khoảng 800.000 tấn/năm). Cả nước có khoảng 300 doanh nghiệp làm giấy, quy mô bình quân khoảng 3.000 tấn/năm/nhà máy. Hiện đã xuất hiện một số nhà máy bột giấy có công suất 1.000-2.000 tấn/năm, phân bổ rải rác ở khắp các vùng núi nhưng không hiệu quả, vì quy mô quá nhỏ sẽ không khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên nguyên liệu, gây ô nhiễm môi trường (không có hệ thống thu hồi hóa chất, xử lý nước thải, chất thải…), thêm vào đó, việc vận chuyển bột đến nhà máy xeo giấy quá xa nên chi phí sẽ tăng lên.

Chúng ta đã bắt đầu hội nhập, ngành Giấy phải làm gì để điều chỉnh những dự án hiện có và định hướng chiến lược phát triển trong những năm tới? Trong đó gồm định hướng xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung để xây dựng các nhà máy bột giấy tẩy trắng; đầu tư sản xuất nguyên liệu bột xơ dài (từ tre nứa) và bột giấy phi gỗ (rơm rạ, cây bông, đay...) để sản xuất giấy bao bì.

Theo các chuyên gia, nhất thiết phải có lộ trình loại bỏ dần các nhà máy quy mô nhỏ dưới 30.000 tấn/năm, đồng thời buộc xây dựng nhà máy mới phải theo công nghệ hiện đại để có hệ thống xử lý các tác nhân gây ô nhiễm môi trường… Không nên tiếp tục đầu tư vào sản phẩm giấy in và giấy viết trong vài năm tới vì công suất đã bão hòa.

Doanh nghiệp dược chuyển động chậm chạp

Khi Việt Nam gia nhập WTO, dự kiến mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ chỉ còn 0% - 5% so với mức thuế 0% -10% như trước đây. Mức thuế trung bình sẽ là 2,5% sau 5 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Thuế trung bình của dược phẩm sẽ giảm từ 44% xuống còn 17,9% vào thời điểm Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết. Điều đó có nghĩa là khi gia nhập WTO, giá thuốc sẽ giảm xuống và trên bình diện chung, người dân sẽ có lợi rất nhiều.

Thế nhưng, ngành Dược Việt Nam chủ yếu là công nghiệp bào chế, sản xuất các thuốc gốc, chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu để sản xuất thuốc. Thuốc sản xuất trong nước chỉ bảo đảm được khoảng 652/1.563 hoạt chất. Vì thế, theo phân tích của nhiều doanh nghiệp, việc giảm giá thành dược phẩm khi gia nhập WTO tuy lớn nhưng sẽ chỉ tùy thuộc vào một số mặt hàng. Đối với các dòng thuốc hiếm, nhất là các thuốc chuyên khoa mà Việt Nam chưa sản xuất được, việc giảm giá chỉ có thể xảy ra khi các công ty đa quốc gia có ý định giảm.

Đứng trước hàng loạt thách thức của ngành Dược khi gia nhập WTO, Bộ trưởng Bộ Y tế Trần Thị Trung Chiến yêu cầu các doanh nghiệp Dược Việt Nam “phải tự đứng trên đôi chân của mình”. Theo ông Hoàng Hữu Đoàn, Giám đốc Xí nghiệp Dược phẩm TƯ 1, việc cần làm lúc này là phải đầu tư dây chuyền đạt tiêu chuẩn GMP - WHO (tiêu chuẩn thực hành sản xuất thuốc theo khuyến cáo của WHO). Nếu doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này sẽ nhận được sự đánh giá tích cực của cộng đồng thế giới vì chất lượng thuốc sản xuất ra hoàn toàn khác.

Tuy nhiên, thực tế đáng buồn là trong số 174 cơ sở sản xuất tân dược ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ có 42 cơ sở đạt GMP-ASEAN và 18 doanh nghiệp đạt GMP-WHO, còn lại các doanh nghiệp vẫn đang trong quá trình chuyển động rất chậm chạp.

Bộ Y tế đưa ra lộ trình: từ 1-2007, các doanh nghiệp phải đạt GMP - ASEAN và từ 1-1-2008, đạt GMP-WHO. Chuẩn bị đến hạn phải đạt GPM, các doanh nghiệp đồng loạt lên tiếng xin Cục Quản lý Dược Việt Nam tiếp tục gia hạn lộ trình này thêm 1-2 năm. Theo ông Cao Minh Quang, Cục trưởng Cục Quản lý Dược Việt Nam, các doanh nghiệp Dược Việt Nam chưa thực sự cố gắng để “tự đứng trên đôi chân của mình”. Và việc gia hạn là không nên vì càng làm cho các doanh nghiệp ỷ lại. “Đạt GMP là vì quyền lợi của doanh nghiệp chứ không vì ai cả, vì chỉ khi có chứng chỉ đó, thị phần của các doanh nghiệp mới được mở rộng. Đạt GMP là lựa chọn tất yếu để doanh nghiệp dược đi ra biển lớn WTO”, ông Cao Minh Quang khẳng định.

Dệt May chưa tạo được bản sắc thương hiệu

Đứng thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu (sau Dầu khí), Dệt May đang được xem là ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động của ngành chỉ là “gia công thuần túy”, mẫu mã na ná nhau, chưa tạo được bản sắc thương hiệu.

Ông Richard Moore Associates, Giám đốc điều hành sáng tạo Công ty Richard Moore Associates cho rằng, ngành Dệt May Việt Nam tuy có những bước tiến vượt bậc nhưng thực sự vẫn chưa có nhiều nhà sản xuất Việt Nam tạo dựng được thương hiệu mạnh vươn ra ngoài thế giới. Thương hiệu là chiến lược dài hạn (khác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm... là chiến lược ngắn hạn), chỉ khi nào lãnh đạo công ty hiểu được điều này thì mới đeo đuổi được việc xây dựng thương hiệu lâu dài. Đây là thời điểm tốt nhất để doanh nghiệp Việt Nam tạo dựng những sản phẩm với thương hiệu mạnh vươn ra thế giới.

  • Tags: