Phát triển mạng lưới khuyến công viên thực trạng và kinh nghiệm từ Thái Bình

Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp nằm ở ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, với 53 km bờ biển, có diện tích tự nhiên 1.536 km2; số dân 1,82 triệu người và là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển kin

Sản xuất CN-TTCN có bước phát triển nhanh; đã hình thành mở rộng nghề một số khu, cụm, điểm công nghiệp và, làng nghề. Giá trị SXCN năm 2005 đạt 3.320 tỷ đồng (giá CĐ 1994), gấp 2,27 lần so với năm 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân (2000-2005) là 17,8%/năm.

Năng lực sản xuất CN-TTCN được mở rộng; công nghệ, thiết bị từng bước được đổi mới. Các khu, cụm, điểm công nghiệp được đẩy mạnh đầu tư xây dựng tạo bước chuyển biến tích cực phát triển công nghiệp của Tỉnh. Tỉnh đã qui hoạch, xây dựng 5 khu công nghiệp với tổng diện tích 693 ha và 8 cụm công nghiệp với diện tích 215 ha. Có 195 dự án đăng ký đầu tư sản xuất với tổng số vốn 4.238 tỷ đồng; trong đó 119 dự án với số vốn 2.380 tỷ đồng đi vào hoạt động, tạo việc làm cho 35 ngàn lao động.

5 năm qua (2001-2005), Thái Bình đã bố trí 14 tỷ đồng cho công tác khuyến công. Tuy số lượng chưa nhiều, song nó đã thực sự góp phần thúc đẩy công nghiệp của Tỉnh phát triển, nhất là đối với việc phát triển nghề và làng nghề như: Duy trì, mở rộng phát triển các nghề và làng nghề truyền thống, đồng thời du nhập thêm nghề mới…

Hình thành và phát triển mạng lưới khuyến công viên:

Trong công tác quản lý nhà nước, ngành Công nghiệp Thái Bình có thuận lợi là sớm hình thành được Phòng Công thương (trước đây là phòng Giao thông Công nghiệp – Xây dựng) ở các huyện, thành phố. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy, nếu chỉ có mạng lưới Phòng Công thương các huyện, thành phố thì vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển cơ sở sản xuất. Do phòng công thương các huyện, thành phố có quan hệ công việc liên quan đến nhiều sở, ngành, trong khi số lượng cán bộ trực tiếp theo dõi phát triển CN-TTCN còn ít (1-2 người), lại phải quản lý trên địa bàn rộng, nhiều xã. Vì vậy, rất khó khăn cho việc nắm bắt và chỉ đạo hoạt động sản xuất cơ sở công nghiệp.

Nhận thức được vị trí, vai trò của cán bộ địa phương cấp xã làm công tác theo dõi, tổng hợp tình hình phát triển CN-TTCN, qua nghiên cứu, khảo sát các mô hình tổ chức của một số ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, xã hội, Sở Công nghiệp Thái Bình đã tham mưu cho UBND Tỉnh xây dựng mạng lưới cán bộ làm công tác khuyến khích phát triển công nghiệp ở nông thôn (gọi là khuyến công viên - KCV).

Đây là lĩnh vực mới hoàn toàn đối với Thái Bình, vì cả nước chưa có tỉnh nào thực hiện để Thái Bình tham quan, học tập. Mặt khác, nguồn kinh phí phục vụ công việc này còn hạn hẹp. Song với kinh nghiệm từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động sản xuất công nghiệp, Sở Công nghiệp đã tham mưu cho UBND tỉnh quyết định hình thành mạng lưới khuyến công viên ở một số xã. Bên cạnh đó, Sở cũng tiến hành xây dựng quy định về tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ và phụ cấp cho khuyến công viên cấp xã, phường, thị trấn.

Năm 2002, mạng lưới đội ngũ khuyến công viên được thành lập thí điểm ở 60 xã, chủ yếu là những xã có làng nghề truyền thống, có ngành nghề công nghiệp nông thôn tương đối phát triển. Đến năm 2003, đội ngũ này được mở rộng lên 142 xã, chiếm 50% số xã trong Tỉnh. Và từ năm 2004 đến nay, đội ngũ khuyến công viên có ở tất cả 285 xã, phường, thị trấn.

Để duy trì hoạt động mạng lưới khuyến công viên, Tỉnh hỗ trợ mức phụ cấp cho 1 cán bộ khuyến công viên là 100.000 đồng/tháng từ nguồn vốn khuyến công của Tỉnh. Nguồn kinh phí này trước đây do Phòng Công thương quản lý và trực tiếp chi cho các khuyến công viên tại các xã. Đến nay đã chuyển về cho ngân sách xã quản lý, chi trả theo Luật Ngân sách nhà nước.

Nhìn chung, đội ngũ khuyến công viên kể từ khi thành lập đến nay, hoạt động tương đối tốt, thể hiện trên một số mặt:

- Góp phần tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những quy chế của Tỉnh về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn.

- Tạo được mạng lưới gắn kết thường xuyên với Phòng Công thương các huyện, thành phố và Sở Công nghiệp, trong công tác quản lý nhà nước và chế độ báo cáo định kỳ hàng tháng về tình hình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của địa phương.

- Tập hợp được những ý kiến, kiến nghị đề xuất của các cơ sở sản xuất công nghiệp tại địa phương.

- Tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

- Giới thiệu cho huyện, cho Tỉnh những cá nhân, đơn vị điển hình trong việc phát triển nghề, làng nghề, từ đó Tỉnh và huyện có cơ chế ưu đãi cụ thể, nhằm khuyến khích động viên để họ tiếp tục phát triển.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của mạng lưới khuyến công viên còn một số tồn tại sau:

- Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều bố trí cán bộ khuyến công viên làm kiêm nhiệm. Nguyên nhân chủ yếu là do mức phụ cấp hàng tháng trả cho cán bộ làm công tác khuyến công viên còn thấp. Vì vậy, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác khuyến công viên.

- Phần lớn cán bộ khuyến công còn bất cập về trình độ chuyên môn (chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ), năng lực công tác hạn chế, nên khó khăn trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy chế khuyến khích của Tỉnh đến cơ sở.

- Việc tham mưu, đề xuất giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc phát triển ngành nghề còn chưa nhiều.

- Thiếu kinh nghiệm hướng dẫn, giúp đỡ các cơ sở sản xuất ở địa phương trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, như vấn đề về mặt bằng, vốn, thành lập, quản lý doanh nghiệp, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm…

Một số kinh nghiệm phát triển mạng lưới KCV ở Thái Bình:

Từ thực tế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và những kết quả đạt được về công tác phát triển mạng lưới khuyến công viên ở Thái Bình những năm qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu như sau:

Một là, tiếp tục duy trì và coi trọng mạng lưới khuyến công viên, coi đây là bộ phận không thể tách rời trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất công nghiệp.

Hai là, phải nâng mức phụ cấp hàng tháng cho đội ngũ mạng lưới KCV để họ an tâm với công việc, trách nhiệm và nhiệm vụ được giao.

Ba là, quan tâm chú trọng đến chất lượng đội ngũ mạng lưới KCV, ngay từ khi tuyển dụng; đồng thời tích cực mở các lớp bồi huấn về nghiệp vụ chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác khuyến công.

Bốn là, hàng năm tổ chức tổng kết hoạt động công tác KCV qua đó đánh giá được những mặt làm được, chưa làm được, đồng thời có chính sách động viên khen thưởng những cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Năm là, giao cho Phòng Công thương các huyện, thành phố đảm nhiệm trong việc chi trả phụ cấp hàng tháng cho mạng lưới KCV, qua đó tạo điều kiện thuận tiện trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của mạng lưới KCV.

Định hướng phát triển mạng lưới KCV giai đoạn 2006-2010.

Để tiếp tục làm tốt công tác khuyến công, tỉnh Thái Bình xây dựng định hướng phát triển mạng lưới KCV giai đoạn 2006-2010.

- Tạo được sự chuyển biến về nhận thức của cấp ủy, chính quyền cấp xã về vị trí, vai trò của khuyến công viên đối với việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của địa phương.

- Tổ chức kiện toàn lại mạng lưới KCV: Hướng bố trí cơ cấu mỗi xã một cán bộ làm công tác khuyến công chuyên (không kiêm nhiệm như hiện nay) trong biên chế cán bộ xã, đồng thời nâng mức phụ cấp hàng tháng phù hợp đối với cán bộ làm công tác khuyến công.

- Hàng năm, tổ chức các hội nghị tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về công tác khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn cho đội ngũ khuyến công viên trong toàn Tỉnh.

- Tăng cường việc kiểm tra giám sát hoạt động của mạng lưới KCV. Tổ chức mạng lưới KCV theo ngành dọc, từ xã lên huyện, tỉnh. ở huyện, Phòng Công thương là cơ quan tham mưu cho UBND huyện ký hợp đồng, quản lý, giám sát hoạt động của đội ngũ KCV. Sở Công nghiệp là đơn vị tham mưu cho UBND Tỉnh quản lý, giám sát đội ngũ khuyến công viên.

Một số kiến nghị:

Để mạng lưới KCV hoạt động thường xuyên, đi vào nề nếp và có hiệu quả, Thái Bình xin kiến nghị với Chính phủ và Bộ Công nghiệp một số vấn đề sau:

- Chính phủ nghiên cứu cho phép mỗi xã, phường, thị trấn (cấp xã có một biên chế chức danh KCV được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

- Cục Công nghiệp địa phương sớm xây dựng ban hành chức năng nhiệm vụ của cán bộ làm công tác khuyến công, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các tỉnh trong việc đào tạo, tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ làm công tác khuyến công ở cơ sở.

  • Tags: