TÓM TẮT:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ đã đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực công nghệ cao nói chung và nhân lực ngành Công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng. Tuy nhiên, nhân lực ngành CNTT hiện nay đang thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Nghiên cứu nhằm hệ thống lại một số yêu cầu đối với nhân lực CNTT trong thời kỳ cách mạng 4.0, đồng thời đưa ra định hướng, cũng như một số giải pháp cụ thể trong đào tạo nhân lực ngành CNTT.
Từ khóa: nhân lực, công nghệ thông tin, cách mạng 4.0.
1. Thực trạng nguồn nhân lực của ngành CNTT hiện nay
Hiện nay, Đề án “Nâng cao nhận thức, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cùng với chương trình chuyển đổi số của Chính phủ và cuộc cách mạng 4.0 đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT, cùng với các doanh nghiệp hiện có đã tạo nên một sự sôi động trong tuyển dụng nguồn nhân lực của ngành.
Theo thống kê từ trang TopDev - trang chuyên về tuyển dụng nhân lực cho lĩnh vực CNTT, nhu cầu nhân lực CNTT gia tăng nhanh chóng nhưng nguồn cung nhân lực cho thị trường lại đang thiếu hụt trầm trọng cả về số lượng và chất lượng. Dự kiến năm 2021, nhu cầu tuyển dụng của toàn ngành khoảng 500.000 lao động, vẫn thiếu khoảng 190.000 lao động.
Theo dự báo về lĩnh vực thu hút nhân tài năm 2021, các nhân lực trong lĩnh vực phân tích dữ liệu (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), an toàn thông tin, lập trình, blockchain,… là những lĩnh vực mà hiện nay các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ đang rất “khát” nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các chương trình đào tạo của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu.
Mỗi năm trên cả nước, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu tốt nghiệp khoảng 50.000 - 60.000 sinh viên [5], còn khoảng cách rất xa so với nhu cầu của thị trường, do đó nhiều doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ đã phải tính tới tuyển dụng lao động nước ngoài.
Thực trạng về chất lượng: Trong nhiều năm qua, chúng ta đã cảnh bảo về tình trạng sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT các trường không đáp ứng được yêu cầu cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, dẫn tới nhu cầu nhân lực thì nhiều nhưng vẫn có tình trạng thất nghiệp nhiều, năng suất lao động thấp. Tỷ lệ lớn nhân lực được các doanh nghiệp tuyển dụng phải đào tạo lại hoặc phải kèm cặp trong một thời gian dài nên dẫn tới khó khăn trong kế hoạch sử dụng nhân lực, ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp.
Mặc dù nhu cầu nguồn nhân lực CNTT lớn như vậy, nhưng theo ông Phí Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Tin học TP. Hồ Chí Minh - HCA, hiện nay, các chương trình đào tạo ngành CNTT trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, đặc biệt là trong việc đào tạo kỹ sư chất lượng cao. Hiện chỉ có khoảng 27% lao động CNTT là có thể đáp ứng yêu cầu.
Hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT tại các trường đại học chủ yếu tập trung vào những ngành học: Kỹ thuật HTTT (Information Systems Engineering), Kỹ thuật đa phương tiện (Multimedia and Communication Engineering), Kỹ thuật phần mềm (Software Engineering), Kỹ thuật hệ thống truyền thông (Communication System Engineering). Nhưng khi đánh giá chất lượng thì đơn vị có chương trình đào tạo ngành CNTT đạt chuẩn khu vực hoặc quốc tế (AUN, ABET) còn rất hạn chế. Mới chỉ có một số trường như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đại học FPT,… đạt tiêu chuẩn kiểm định ở trong ngành Khoa học máy tính và Công nghệ phần mềm. Còn lại các ngành học, chuyên ngành học mới, mang tính chất thời đại như phân tích dữ liệu lớn (Bigdata), xây dựng hệ sinh thái di động, blockchain; deeplearning, AI,… vẫn còn mang tính khởi đầu, chưa được chuẩn hóa.
Hiện nay, một số đơn vị đào tạo nguồn nhân lực CNTT còn chưa rạch ròi giữa khái niệm chuẩn đầu ra và mục tiêu chương trình đào tạo. Theo khảo sát, hiện có đến 60% đơn vị đào tạo có chuẩn đầu ra mang tính hình thức [6]. Nhân lực CNTT đào tạo ra còn thiếu trình độ chuyên sâu, kỹ năng tiếng Anh chưa thông thạo, hạn chế về tác phong làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo, thiếu khả năng giao tiếp và làm việc nhóm.
Việc đào tạo của các trường, trung tâm đào tạo nhân lực CNTT còn đang xa rời thực tế, tỷ lệ lý thuyết so với thực hành còn cao, hầu hết các chương trình khung đào tạo của các trường đang là 70/30, trong các môn học lí thuyết lại tập trung nhiều vào các môn học hàn lâm, thiếu thực tế của ngành. Một số đơn vị đào tạo chưa có kết nối trực tiếp với các đơn vị sử dụng nhân lực, nên bài thực hành của sinh viên vẫn được “thiết kế cứng” trong sự chủ quan và lý luận, dẫn tới giá trị của bài thực hành ngày càng kém hiệu quả.
2. Những yêu cầu năng lực đối với nhân lực ngành CNTT
Theo giáo sư Ngô Bảo Châu, “sinh viên Mỹ tiến bộ nhanh vì tự học nhiều” [9], với một xã hội chuyển động không ngừng, lượng thông tin tạo ra trong 1 năm bằng khoảng 10 năm ở thế kỷ XX thì để đáp ứng được các yêu cầu của xã hội và ngành nghề. Một nhân lực ngành CNTT ngoài việc tự học, cần có các năng lực cụ thể:
- Về kiến thức: theo giáo sư Gottfried Vossen (ĐH Münster, Đức) nhân lực CNTT ngoài việc trang bị các kiến thức cốt lõi của công nghệ kỹ thuật số như Big Data, IoT, Cyber security, Cloud Computing, Ethical Hacking và lập trình di động, lập trình nhúng theo các chuẩn công nghệ quốc tế thì cần được đào tạo các kiến thức liên ngành, phi truyền thống, CNTT phải gắn liền với Kinh tế số, Xã hội số, Y tế, Nông nghiệp, Sản xuất công nghiệp,…
Ngoài các kiến thức về lí thuyết, người học rất cần được trang bị và tiếp cận kiến thức thực hành tại các đơn vị sản xuất; Việc phân luồng nguồn lao động phải được thực hiện ngay trong giai đoạn nhà trường để phân nhóm sinh viên thực tập, thực hành tại các đơn vị sản xuất theo hướng chuyên sâu và tập trung.
- Về kỹ năng: nhân lực ngành CNTT ngoài việc đào tạo các kiến thức cơ bản còn cần được đào tạo các kỹ năng mềm, như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc đội nhóm, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng xử lý vấn đề,... Những kỹ năng này sẽ rất cần thiết trong làm việc nhóm, sáng tạo.
- Về ngôn ngữ: với sự phát triển của công nghệ, người lao động trong ngành CNTT hơn hết phải lao động trong môi trường hội nhập quốc tế, kỹ năng tiếng Anh là một đòi hỏi tất yếu của ngành, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp 4.0 .
- Thái độ: theo nhiều nghiên cứu, nhân lực ngành CNTT 4.0 muốn thành công, phát triển lao động trong ngành CNTT cần có các thái độ:
Đam mê: đây là yếu tố quan trọng giúp nhân lực CNTT vượt qua áp lực, không ngại đầu tư công sức, trí tuệ vào công việc và các công trình, dự án.
Tính chính xác trong công việc: đây là yêu cầu bắt buộc của mọi lĩnh vực khoa học, đặc biệt là các ngành khoa học công nghệ như máy tính. Trong quá trình lao động, xây dựng và sáng tạo ngành CNTT, chỉ cần một sai sót nhỏ có thể gây hậu quả rất lớn.
Ham học hỏi: công nghệ và thế giới số luôn vận động, thay đổi và không ngừng phát triển, sáng tạo kiến thức mới, do vậy nhân lực CNTT phải liên tục học tập, cập nhật thông tin, kiến thức để bắt kịp tốc độ phát triển của ngành.
3. Những định hướng đào tạo và phát triển nhân lực ngành CNTT trong giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030
Đào tạo đại học của Việt Nam nói chung và đào tạo nhân lực ngành CNTT nói riêng đang theo mô hình truyền thống, chủ yếu tập trung vào hoạt động nghiên cứu nhằm tìm kiếm tri thức mới. Trong khi đó, Luật Giáo dục đại học đã xác định đào tạo đại học là nghiên cứu và thực hành; xã hội ngày càng có yêu cầu lớn hơn về việc đào tạo ra lực lượng lao động có trình độ cao, có thể tham gia trực tiếp vào hệ thống sản xuất - kinh doanh. Do vậy, đào tạo nhân lực ngành CNTT phải tập trung mạnh vào thị trường lao động, người học phải được tạo dựng môi trường thuận lợi để thực hành nghề nghiệp trong cả quá trình đào tạo tại trường. Với định hướng tại dự thảo Đề án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến 2025 và định hướng đến năm 2030, mỗi năm chúng ta cần đào tạo khoảng 100.000 kỹ sư CNTT có trình độ cao, trong đó khoảng 10.000 chuyên gia kỹ thuật số.
Nhân lực ngành CNTT phải được đào tạo các kiến thức, kỹ năng tự học, tự rèn luyện theo định hướng tiếp thu đầy đủ kiến thức của khoa học cơ bản, khả năng ứng dụng công nghệ nguồn thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh, định hướng sâu vào các chuyên ngành kinh tế số, công nghệ số.
Về mục tiêu: Người lao động phải tự học, rèn luyện thông qua việc đào tạo để đảm bảo kiến thức nghề nghiệp rộng, khả năng ứng dụng trong các tình huống khác nhau, sáng tạo và linh hoạt, làm việc có phương pháp, giao tiếp xã hội, quản lý và trách nhiệm với bản thân, nghề nghiệp và xã hội… đáp ứng yêu cầu kiến thức, kỹ năng và thái độ của công nghiệp 4.0, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số của Đề án quốc gia về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Về nội dung: Người học cần xác định công việc và các nội dung theo yêu cầu của công việc, ứng dụng lí thuyết đã học vào thực hành nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của tương lai.
Về phương pháp: Chú trọng công tác tự học, tự thực hành thực tập, đi thực tế để tự tích lũy kinh nghiệm, tự hoàn thiện các kỹ năng theo hướng dẫn của nhà trường, đơn vị đào tạo. Tập trung vào các chuyên ngành cơ bản, như: lập trình, phân tích hệ thống, quản trị cơ sở dữ liệu, chuyên gia bảo mật, chuyên gia kỹ thuật số.
Trong việc phát triển nguồn nhân lực ngành CNTT phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0, điều quan trọng là người lao động cần xác định được yêu cầu của nghề nghiệp tương lai, xây dựng tinh thần tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp với tương lai.
4. Một số giải pháp trong đào tạo nhân lực ngành CNTT
Thứ nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng đào tạo nhân lực ngành CNTT, cải tiến chương trình, tài liệu giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, thực hiện chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp và nhà trường, kết nối doanh nghiệp với nhà trường để sinh viên được thực hành, thực tập tại doanh nghiệp, cùng nhau xây dựng năng lực về đào tạo lại, đào tạo liên tục trong chuyên môn,… để tránh chồng chéo giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Thứ hai, cần chuẩn hóa các nội dung, kiến thức đào tạo một cách liên tục để đáp ứng được yêu cầu đối với nhân lực ngành CNTT, việc chuẩn hóa này phải được thực hiện kết hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Thông tin và Truyền thông; giữa nhà trường và doanh nghiệp để cập nhật kịp thời kiến thức, kỹ năng mới nhất.
Thứ ba, ngoài việc chú trọng đào tạo chuyên môn, các trường, đơn vị đào tạo cần đẩy mạnh đào tạo về kỹ năng đối với sinh viên ngành CNTT, đặc biệt là các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp và ngoại ngữ, bởingoại ngữ là yếu tố then chốt và đang là điểm thắt lớn nhất của nhân lực CNTT, rào cản nhân lực CNTT tiếp cận với kiến thức mới của thế giới và khu vực.
Thứ tư, về phía cơ sở đào tạo cần coi trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên, giảng viên cần được thực tế nhiều hơn tại các đơn vị sản xuất. Tiếp nữa là các cơ sở đào tạo cần mở rộng hơn việc hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, lựa chọn những cán bộ, sinh viên đủ năng lực, phẩm chất đi học tập, nghiên cứu chuyên sâu những ngành mới của thế giới.
Để có một giải pháp hiệu quả, các đơn vị đào tạo cần xây dựng nhiều mô hình, cách thức triển khai xây dựng chương trình khung khác nhau, tập trung theo hướng đào tạo đại học các ngành CNTT theo hướng kết hợp.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng và ban hành khung chương trình đào tạo chuẩn, đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, lấy đây làm nền tảng để các đơn vị đào tạo xây dựng chương trình cho riêng mình.
Dựa trên cơ sở khung chương trình đào tạo đảm bảo chuẩn quốc tế và khu vực được ban hành, các đơn vị đào tạo có thể linh động điều chỉnh, thay đổi, bổ sung một số nội dung theo đặc thù của đơn vị. Đảm bảo khối lượng điều chỉnh không quá một tỷ lệ xác định so với chương trình mẫu. Quá trình triển khai xây dựng chương trình áp dụng phương pháp CIDO hướng chuẩn kiểm định ABET cho khối ngành kỹ thuật.
- Tăng cường hạ tầng đào tạo: Để tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực ngành CNTT, các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp tỉnh có thể tính tới đặt hàng đối với các trường đào tạo trọng điểm trong một số lĩnh vực như an ninh mạng, an toàn thông tin để các trường có điều kiện đầu tư nguồn lực về con người và cơ sở vật chất để phục vụ đào tạo, xây dựng hệ thống đào tạo truyền thống kết hợp với đào tạo trực tuyến, xây dựng các chuyên đề đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng nhóm đối tượng, cơ quan quản lý, doanh nghiệp, đơn vị dịch vụ công,…
- Đào tạo các chuyên ngành CNTT, công nghệ số, kinh tế số và xã hội số, tăng sự liên kết giữa nội dung CNTT với các ngành: Y tế, Du lịch, Tài chính, Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Năng lượng, Sản xuất công nghiệp.
Thực hiện đào tạo lại, đào tạo nâng cao về CNTT, công nghệ số, kỹ năng số, tổ chức đào tạo chuẩn hóa theo Hệ thống đánh giá, sát hạch Chuẩn kỹ năng nghề Quốc gia.
Về cơ chế tài chính: Ưu tiên bố trí kinh phí để triển khai các chương trình, dự án đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực CNTT, các dự án về chuyển đổi số, ứng dụng CNTT vào quản lý hành chính và quản lý Nhà nước.
Ưu tiên kinh phí từ các chương trình học bổng đề đào tạo giảng viên, nghiên cứu viên và cán bộ chuyên trách về CNTT, kỹ thuật số tại nước ngoài phục vụ công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho các trường đại học chuyên ngành.
Khai thác nguồn kinh phí từ các doanh nghiệp thông qua các chương trình liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm bổ sung cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Vân Anh (2018). Nhu cầu tuyển nhân sự ngành công nghệ thông tin cao nhất trong lịch sử. Truy cập tại: https://vov.vn/cong-nghe/nhu-cau-tuyen-nhan-su-nganh-cong-nghe-thong-tin-cao-nhat-trong-lich-su-735194.vov.
- Bộ TT&TT (2021). Dự thảo Đề án “Nâng cao nhận thức, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
- Chính phủ (2019). Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2020. Truy cập tại: http://fee.tnut.edu.vn/quy-hoach-phat-trien-cong-nghe-thong-tin-va-truyen-thong-viet-nam-den-nam-2020-dt588.html
- Trần Thu Giang (2017). Một số giải pháp về phát triển nguồn nhân lực CNTT tại Việt Nam. Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Thu Hằng (2019). Giải bài toán phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Truy cập tại: https://vov.vn/cong-nghe/giai-bai-toan-phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-thong-tin-902485.vov.
- Nguyễn Xuân Huy (2018). Giáo dục và đào tạo trong thời đại công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo, Đại học Nha Trang.
- Ictnew (2019). Hơn 100 trường đại học tại Việt Nam bàn vấn đề phát triển nhân lực ICT trình độ cao. Truy cập tại: https://portal.ptit.edu.vn/hon-100-truong-dai-hoc-tai-viet-nam-ban-van-de-phat-trien-nhan-luc-ict-trinh-do-cao/.
- Phạm Thị Thu Thủy (2018). Đào tạo nguồn nhân lực CNTT theo định hướng ứng dụng, nhận xét và đề xuất. Đại học Nha Trang.
- Nguyễn Thủy Đoan Trang (2018). Đổi mới đào tạo công nghệ thông tin theo định hướng cách mạng công nghiệp 4.0. Kỷ yếu hội thảo, Đại học Nha Trang.
IT HUMAN RESEROUCES DEVELOPMENT IN THE PERIOD FROM 2021 TO 2025: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS
Tran Quoc Toan
Nam Viet Communication Technology Development and Investment Joint Stock Company
Abstract:
The strong development of the Fourth Industrial Revolution (Industry 4.0) has set many new requirements for human resources in high-tech industries in general and human resources in the information technology (IT) sector in particular. However, Vietnam’s information technology sector has faced the lack of high-quality human resources. This study outlines some requirements for IT human resources during the Industry 4.0 period and proposes some orientations and specific solutions for training IT human resources.
Keywords: human resources, information technology, the Fourth Industrial Revolution.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ,
Số 20, tháng 8 năm 2021]